TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap IV A)

Tuesday, December 20, 2005

Tệp 1 – Tập IV Blog A
(phân đoạn 1, truyện kí thứ 11)

Tiếp theo tập III Blog A & Blog B
http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/


TRẦN XUÂN AN

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)


truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử
TẬP IV
(trọn bộ 4 tập)

bản sơ thảo hoàn chỉnh, 02.2003
bản tự nhuận sắc, 02.2004


NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP. HCM.
2004
(trong bản đã xuất bản,
có gác lại một số đoạn chú thích)

THÁNG HAI
HAI KHÔNG KHÔNG BA
THÁNG GIÊNG QUÝ MÙI
NĂM THỨ HAI CÔNG NGUYÊN HOÀ BÌNH



TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN

Tác giả,
TRẦN XUÂN AN
71B Phạm Văn Hai
(Cửa hiệu Phan Huyên)
Phường 3, quận Tân Bình
Thành phố Hồ Chí Minh
ĐT.: [08] 8453955
& 0908 803 908

Khởi viết từ 07 giờ 30 phút, ngày 06.01.2003
(04.12 Nhâm ngọ, năm thứ hai công nguyên Hoà Bình);
Tạm hoàn tất tập IV vào lúc 16 giờ 14 phút,
ngày 27.01.2003 (25 tháng chạp, Nh. ngọ HB.3);
Chú thích xong vào lúc 09 giờ kém 12 phút,
ngày 22.02.2003 (22.01 Quý mùi HB.3),
tại thành phố Hồ Chí Minh.



Kính dâng lên bàn thờ cao tổ phụ
NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

Trần Xuân An,
hậu duệ thế hệ thứ năm.


Xin tạ ơn ngọn bút,
biểu tượng của sự công chính và liêm khiết trí tuệ.
Xin yêu thương, trân trọng
và bảo vệ
từng dòng chữ mồ hôi nước mắt
của chất xám và trái tim.

TXA.



PHẦN THỨ SÁU
(1883 – 1885)


TRẦN XUÂN AN

THẾ TRẬN
“TOẠ SƠN QUAN SONG HỔ ĐẤU”


Truyện kí thứ mười một
(phân đoạn 1)

1

Hoàng tử thứ ba Ưng Đăng đã bước vào tuổi mười bốn, xấp xỉ mười lăm, kể cả một tuổi trong lòng mẹ. Ưng Đăng thực sự có mặt trên đời này chín tháng mười ngày trước ngày cất tiếng khóc ngỡ ngàng trong phút chào đời. Hôm chào đời ấy là mùng hai Tết Nguyên đán năm Kỉ tị (1870) (1). Hoàng tử thứ ba Ưng Đăng là con đẻ của Kiên quốc công Hồng Hợi và phủ thiếp Bùi Thị Thanh. Thân phụ Hồng Hợi là em ruột của vua Tự Đức. Thân mẫu Bùi Thị Thanh, nguyên quán ở làng Đồng Dương, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Nhưng người nuôi nấng, bú mớm, dạy dỗ cho Ưng Đăng từ tháng giêng năm Canh ngọ (1871), lúc hoàng tử mới lên hai tuổi ta, lại là học phi Nguyễn Văn thị Hương (2), thứ phi của vua Tự Đức, vốn là người thuộc làng An Đức, tỉnh Vĩnh Long, Nam Kì (ngụ tại xã Dương Xuân, tỉnh Thừa Thiên) (1).
Hoàng tử Ưng Đăng “từ nhỏ đã hiểu biết sớm, ôn hoà, yên lặng, sạch sẽ, cẩn thận lời nói và việc làm. Khi hầu cơm, khi thăm hỏi, [hoàng tử luôn luôn] kính cẩn giữ phận làm con. Ngày thường, chỉ ưa thích sách vở, thơ văn. Dực tông Anh hoàng đế khen ngài [Ưng Đăng] thông minh, chăm học, giống tính vua cha [hoàng dưỡng phụ Tự Đức], tỏ ý yêu dấu khác thường. Mùa thu năm Nhâm ngọ, Tự Đức thứ ba mươi lăm (1882), [vua cha] cho ra nhà đọc sách ở bên tả Duyệt thị đường, đặt tên nhà ấy là Dưỡng thiện đường. Sau lúc [Ưng Đăng] rảnh rang sử sách, vua cha lại sai đem các chương tấu ở các nha thuộc các Bộ mà cắt nghĩa, giảng giải để [hoàng tử thứ ba] tập xem cho quen” (3) .
“tư trời thông tuệ, tính nết nguyên lương; dạy lấy điều lành, tiên đế đã định lòng kén chọn” (4) , cho nên, việc lập Ưng Đăng lên ngôi lúc gần mười lăm tuổi không phải là một việc đáng ngạc nhiên đối với phần lớn đình thần, hoàng tộc. Người ta thấy như vậy là hợp lẽ hơn, hoàn toàn đúng theo ẩn ý của vua Tự Đức trong di chiếu và di chúc.
Lúc trời chưa kịp rạng đông ngày ba mươi tháng mười một Quý mùi (1883), khi rước hoàng tử Ưng Đăng từ Khiêm lăng về Điện Tịch điền quan canh, hai đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và đa số triều thần, hoàng thân đã bái yết, nói rõ việc nghinh lập.
Hoàng tử Ưng Đăng, đã là vua nối ngôi, khiêm tốn nói:
- “Ta còn non trẻ, sợ không cam nổi công việc” (5) !
Hai đại thần phụ chính, một vị tâu trước, một vị lặp lại y như thế, để tỏ sự đồng tâm nhất trí giữa hai người:
- “Đó là ý của tiên đế [Tự Đức], nay là mệnh trời. Xin nghĩ lấy tôn miếu, xã tắc làm trọng” (5) .
Ngày mậu dần mùng một, tháng mười một nguyệt lịch, Quý mùi (1883), vua nối ngôi Ưng Đăng (còn có tên là Ưng Hỗ), đến Điện Cần Chính, lạy nhận tỉ ngọc ấn vàng truyền quốc. Bấy giờ, mũ cửu long, áo bào vàng, đai ngọc chưa kịp chế xong, vua nối ngôi Ưng Đăng, chỉ mặc áo thêu hình con mãng (6).
Hai hôm sau, Ưng Đăng chính thức được tôn lên ngôi hoàng đế Đại Nam, lấy niên hiệu là Kiến Phúc (6).
Trong đoạn mở đầu ân chiếu lúc đăng quang, có đoạn:
“Đã theo ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu chuẩn cho Lãng quốc công [Hồng Dật] lên nối ngôi [lấy niên hiệu Hiệp Hoà], vì lúc này nhiều việc, nước cần có vua lớn tuổi, mới có thể gánh vác được. Ngờ đâu mới được bốn tháng, [Hiệp Hoà] đã làm nhiều điều lầm trái. Nay hoàng thân, vương công, Tôn nhân phủ, phụ chính đại thần và văn võ trăm quam đồng thanh đem việc tâu lên, cho rằng trẫm là con nhỏ của tiên hoàng đế, xin nối ngôi để giữ mối lớn, kính vâng [theo] ý chỉ [Từ Dũ thái hoàng thái hậu] y cho” (6) .
Cũng trong những ngày “trước đây, hoàng thân, tôn nhân, đình thần tâu nói: “Hiện nay công việc nặng nề, khó nhọc, tự quân tuổi nhỏ lên ngôi, cần có những bậc thân thần trọng hâïu, lão luyện giúp đỡ, mới mong trọn vẹn”” (7) . Thân thần là những vị quan vốn thuộc hoàng tộc trong đế hệ (được đặt tên theo Đế hệ thi). Do đó, “hữu tôn nhân ở Phủ Tôn nhân Gia Hưng quận vương là Hồng Hưu sung làm phụ chánh đại thần [phụ chánh thân đại thần]” (7) .
“các nha ở Bộ, Các, từ nay đi, phải có mảnh giấy tâu […].Trước phải tâu bày với phụ chính thân thần Gia Hưng quận vương là Hồng Hưu và phụ chính đại thần kiêm sung Cơ mật viện đại thần, thái tử thái phó, thự Văn minh điện đại học sĩ, lãnh Hộ bộ thượng thư, tước Kì Vĩ hầu Nguyễn Văn Tường, điện tiền tướng quân, hiệp biện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, tước Vệ Chính bá Tôn Thất Thuyết vâng duyệt rồi sau sẽ tâu lên vua. Đó là kính theo lệ cũ của Dực tông Anh hoàng đế [Tự Đức] khi mới lên ngôi, chuẩn y cho làm” (7) .
Theo thông lệ, một loạt quan chức trong kinh, ngoài tỉnh được thăng thưởng sau lễ đăng quang. Các quan phụ chính cũng thế. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường phải kiêm quản thêm chức trách ở Khâm thiên giám, kiêm Quốc sử quán tổng tài (8). Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết chuyển sang lãnh thượng thư Bộ Binh. Phụ chính thân đại thần Hồng Hưu thăng lên “nhất tự vương” (một chữ “vương”) , tước cao nhất trong hoàng tộc, gọi là Gia Hưng vương. Nhưng hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết xin trả lại tước hàm do Hiệp Hoà phong thăng (8).
Về việc sắp xếp lại hoặc giữ nguyên nhân sự, trong nhiều vị quan thuộc trường hợp thứ hai này, có “hồng lô tự khanh, biện lí Bộ Hộ đi sang các nước Phương Đông về, là Nguyễn Thượng Phiên, vẫn làm biện lí như cũ” (9) .
Cuộc đảo chính do lực lượng chủ chiến tiến hành đã hoàn toàn thành công!
Trong việc phế truất, nghinh lập, Ông Ích Khiêm được xác định là người có công lao lớn nhất, trong ba mươi chín (39) vị quan trực tiếp tiến hành (10). Ông được phong tước nam (nam tước), chuyển sang làm ở Bộ Binh với hàm thị lang, được thưởng huy chương “Long vân khế hội” hạng nhất, một đồng tiền vàng với dải đeo. Theo thứ tự, sau Ông Ích Khiêm là Chu Đình Kế, Tôn Thất Phan, Hoàng Hữu Thường, Nguyễn Hổ, Tôn Thất Triệt, Lê Đại, Trương Văn Đễ, Nguyễn [Thượng] Phiên, Tạ Thúc Đĩnh,… Tôn Thất Lương Thành,… Hồ Lệ,… Tôn Thất Thế,… Nguyễn Hanh, Hồ [Văn] Hiển, Đinh Tử Lượng, Vũ Văn Đức, Nguyễn Hữu Ngoạn, Trần Xuân Soạn,… Tôn Thất Trang,… Tống Phúc Hiệp,… (10).
Riêng về học phi Nguyễn Văn thị Hương, vốn là dưỡng mẫu của vua Kiến Phúc, chiểu theo tiền lệ phong sắc cho thân mẫu vua Hiệp Hoà, được phong làm hoàng thái phi. Đây là một lệ định trước đây đình thần, tôn nhân đã nghiên cứu kĩ trong sách sử, điển lệ xưa nay (11). Từ Dũ thái hoàng thái hậu chuẩn y (11).
Công việc có tính chất nghi lễ để xác định tính hợp hiến và tính chính thống của vua nối ngôi Kiến Phúc đã hoàn tất trong vài hôm, vì tình hình Bắc Kì đang lúc cấp bách. Tuy thế, vẫn không thiếu vẻ trang trọng. Việc tôn lập này không một ai có thể nói là có một chút nào lạm quyền, chuyên quyền. Đặc biệt nhất là với cơ chế phụ chính được xác lập, hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cũng không thể bị một ai cho là quyền thần độc đoán.
Một động tác ngoại giao cũng được thực hiện, là vị vua trẻ đã “chuẩn cho Ti Thương bạc trong Cơ mật viện đem việc lễ đăng quang đã xong, viết thư báo cho công sứ Pháp là Săm Bô (De Champeaux) để ông ta chuyển [thông] tư cho Suý phủ của Pháp ở Gia Định, báo cáo về quốc trưởng nước Pháp” (12) . De Champeaux điên tiết, lồng lộn trong cơn tức giận, vì y và những tên thực dân chóp bu tại Pháp bị hai quan phụ chính Đại Nam đặt trước một sự đã rồi!

2

Bấy giờ, từ sau khi Thuận An bị thất thủ, thực dân Pháp hoàn toàn phong bế cửa ngõ kinh đô. Chúng thường xuyên đỗ tại đó hai, ba chiếc thuyền binh với ba ngàn bốn trăm (3.400) tên lính viễn chinh (13). Bọn pháp quyết không cho một chiếc thuyền buôn nước ngoài nào được ra vào (13). Những chiếc thuyền đồng của ta đỗ ở Đà Nẵng, Quảng Nam, chúng cũng ngang ngược tước lấy máy móc, vũ khí (13)! Thực dân Pháp còn cho tàu binh của chúng tuần tiễu khắp các hải phận Nam – Bắc, vì chúng sợ bất thần tàu chiến của ta và của quân Thanh tấn công, giải toả.
Vì bị giặc Pháp ngăn sông cấm biển như thế, nên có lệnh dụ Phủ Thừa Thiên phải nộp nguyên định mức thóc thay vì chiết nộp từng đợt, các tỉnh trực kì cũng phải điều hoà lương thực cho nhau (14). Không còn cách nào khác, vì tàu thuyền đều bị cấm vận!
Mặt khác, quan ở bộ phận Thương bạc thuộc Viện Cơ mật phải qua gặp De Champeaux để thương thuyết, đề nghị nới lỏng sự cấm vận cho tàu thuyền treo cờ hiệu nước ta (13)! Thật là cay đắng và căm phẫn!
Triều đình lại phải tiến hành nghị xử các quan đã can tội thất thủ thành luỹ từ mùa xuân năm Nhâm ngọ (1882) đến mùa thu năm nay (1883). Đó là các thành Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Thuận An, Hải Phòng. Theo đình nghị và đã được chuẩn y: “Đều được gia ơn khoan giảm có thứ bậc. Vì cớ lần ấy đường lối chiến hay hoà chưa xác định, tình hình diễn biến quá bất ngờ, việc phòng thủ có khó khăn, nên đặc ân giảm tội đến mức thấp nhất” (15) . Trong đó, đa số đều được giảm ở mức cách chức, cho đi hiệu lực (làm việc chuộc tội), chỉ mỗi một Phan Văn Tuyển, nguyên bố chánh Hà Nội, “lần ấy bỏ thành trốn trước” (15) , phải bị cách chức về làm dân thường, chịu sai dịch (sẽ được khai phục cử nhân). Riêng tổng đốc Hà – Ninh Hoàng Diệu, đã tử tiết cùng thành, “chuẩn cho giữ nguyên chức hàm, lại cho chép ngay vào sổ ghi [ở] những đền thờ người trung nghĩa để biểu dương” (15) .
Đúng như năm kia, thượng thư Nguyễn Văn Tường đã nói cùng nguyên hiệp đốc Tôn Thất Thuyết (lúc ông chưa được vua Tự Đức bổ nhiệm làm thự thượng thư Bộ Binh), trong thời gian hơn một năm cuối đời của vua Tự Đức đến khi Hiệp Hoà lên ngôi vua trong bốn tháng, hai vị vua này đều không dứt khoát chiến hay hoà! Quả thật, trong thời gian gay go đầy thử thách đó, “đường lối chiến hay hoà chưa xác định” (15) !
Một trong những nguyên nhân là nhà Thanh cũng không quyết tâm đánh giúp, viện trợ cho quân binh ta!
Khi hồng lô tự khanh, biện lí Bộ Hộ Nguyễn Thượng Phiên được cử sang Quảng Đông và các nước Phương Đông về, tình hình thương thuyết giữa Trung Hoa với Pháp đã được ông báo cáo khá tỉ mỉ. Nhờ đó, cộng với những thông tin Viện Cơ mật thu thập được, hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nắm chắc hơn vấn đề, để cùng đi đến một quyết sách.
Chính tên bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp Pothuau đã viết thư cho tên bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp, từ ngày 30.12.1882:
“Tình hình của chúng ta ở Bắc Kì sinh ra nhiều việc lo âu cho hai bộ chúng ta, và đã nhiều lần chúng ta cùng nhau than phiền rằng, hoà ước 1874 [Giáp tuất] thiếu sự rõ ràng và nó lại khiếm khuyết nữa. Thực vậy, về phần ta, thì hoà ước này bao hàm phần lớn các nhiệm vụ mà một nước đi “bảo hộ” phải đảm nhận, nhưng nó không bao hàm một quyền lợi nào cả. Nước An Nam có quyền đòi ta giúp sức chống nội hoạ hay ngoại hoạ nào nguy hại cho chủ quyền nó, nhưng đối với các nước khác thì chúng ta không thể căn cứ vào vai trò của ta để đòi hỏi cái quyền có một ưu thế trong chính trị, ngoại giao” (16) .
“Tôi có cần phải nói không, tình hình này là do cái hoà ước 1874 [Giáp tuất]! Hoà ước này rõ ràng được thảo ra với ý định thành lập quyền đô hộ của ta trên xứ Bắc Kì, nhưng nó không nói đến chữ đô hộ. Vì vậy mà, thực ra, những người đại diện của ta, dù có quân đội ủng hộ, họ không phải đại diện của một quyền đô hộ mặc dù họ có làm một phần việc ấy, cũng không phải là đại diện lãnh sự, bởi vì họ không có quyền tài phán” (16) .
“Hoà” ước Giáp tuất 1874 đối với thực dân Pháp và các tên “tả đạo” là cả một nỗi đau lòng, và càng ngày chúng càng thấy rõ là không thể vin vào đâu trong “hoà” ước ấy để bắt ép Đại Nam trong khi lòng tham lam của chúng không hề giảm bớt!
Khi thực dân Pháp quyết định phải dùng bạo lực để làm sức ép, chính thượng thư Nguyễn Văn Tường đã phá vỡ thế cấm vận ngoại giao của Pháp, bằng cách tiếp xúc với Đường Đình Canh (Chiêu thương cục) (17), với hướng mở sang Trung Hoa và các nước châu Âu (nhiệm vụ của đoàn khâm sai do Phạm Thận Duật dẫn đầu), mở sang các nước Phương Đông (nhiệm vụ của khâm phái Nguyễn Thượng Phiên) (17).
Bộ trưởng Ngoại giao Pháp gửi bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Pháp Jauréguiberry, ngày 26.09.1882:
“Hồi đầu tháng bảy, chính phủ Nam Kì (Pháp) có lúc tưởng rằng đã có thể vượt qua những khó khăn hiện tại. Triều đình Huế, có một lúc có giận dữ vì ta lấy Hà Nội, nay đã có thái độ hoà nhượng hơn, và ta tin rằng họ có thể kí một hoà ước phụ thuộc cho hoà ước 1874 [Giáp tuất], cương quyết hơn và rõ ràng hơn, đặt nước An Nam dưới sự bảo hộ của ta, trong những điều kiện na ná với xứ Tunysie. Thình lình, một chuyển hướng xảy ra trong trí của những cố vấn vua Tự Đức, họ tuyệt đối không nhận những đề nghị của ta nữa. Cũng như ngài, tôi nghĩ rằng sở dĩ như thế là vì ảnh hưởng của Trung Quốc… Cho nên cũng như ngài, tôi đồng ý là chính phủ Pháp phải có một thái độ cương quyết và quyết định để phá những mưu mô có thể đem lại những kết quả tai hại. Vả lại, từ lúc cuộc viễn chinh này bắt đầu thì bản bộ [Ngoại giao Pháp] đã theo một đường lối giống hẳn như đường lối bây giờ” (18) .
Sứ thần Tăng Kỷ Trạch nhà Thanh cũng được lệnh đấu tranh với Pháp tại châu Âu, sau khi thượng thư Nguyễn Văn Tường tiếp xúc với Đường Đình Canh, gửi thư cho Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Thuyên, đề đạt lên vua Quang Tự (17).
Biên bản thương nghị giữa Lý Hồng Chương và Bourée ở Thiên Tân ngày 27.11.1882 ghi rõ lời họ Lý:
“Chúng tôi có thể nào tuyên bố rằng: Một mặt Trung Quốc thừa nhận chủ quyền của nước Pháp tại Việt Nam ở nơi nào mà Pháp có chủ quyền ấy rồi, nghĩa là ở Sài Gòn và sáu tỉnh [Nam Kì]; mặt khác thì Pháp thừa nhận quyền bảo hộ (suzenaineté) của Trung Quốc ở phần Việt Nam còn lại, rồi cả hai đều cùng nhau đô hộ chăng? Một lời tuyên bố như thế sẽ được quảng cáo rộng rãi nhất, như thế danh nghĩa của chúng tôi được bảo vệ mà quyền lợi của các ông không tổn thất gì cả” (19) !
“Chúng ta chắc chắn sẽ giàn xếp với nhau được và tôi sẽ nhờ Tổng lí nha môn gấp rút ra một chỉ thị để rút quân của chúng tôi về” (19) .
Ngày 15.01.1883, Henry Rivière gửi thư cho Rheinart:
“Ông Bourée mà Bắc Kinh và Paris đều thừa nhận ý kiến, đương làm một hoà ước rất ngu ngốc. Theo hoà ước đó thì cả “Bắc Kì gạo” sẽ về tay ta, còn cả “Bắc Kì mỏ” thì về tay Trung Quốc…” (20) .
“Nếu quả người ta đã bỏ cả vùng mỏ thì thật là đáng tiếc…” (20) .
Rheinart viết cho Henry Rivière, ngày 09.02.1883:
“Dù sao đi nữa, nếu chúng ta muốn chộp lấy cơ hội cuối cùng để làm chủ mỏ than thì chúng ta phải làm mau, không để mất thì giờ. Có lẽ cần phải hỏi ý kiến Paris, nhưng thư từ lâu lắc quá mà chắc là trong một tháng hay sáu tuần [Tây lịch] thì mỏ Hòn Gai sẽ bị giao [cho Trung Quốc] rồi…” (21) .
Và sự thật về Đường Cảnh Tùng? Chính Đường Cảnh Tùng đã thuyết phục Lưu Vĩnh Phúc:
“Vua Việt thế thua, vận suy, địa phương rối loạn… Ông có thể nhân thời cơ ấy đem số quân Việt Nam giết hết đi, tức là lên ngôi cửu ngũ, sao mà không được? Đường [Cảnh Tùng] mỗ đây thấy thời không thể bỏ lỡ, xin đặc biệt giúp ông, ấn tín đã dự bị sẵn cả. Ông nên đi trước hành sự, không thể bỏ lỡ cơ hội tốt. Người xưa nói “thức thời vụ là hào kiệt” (22) .
Lưu Vĩnh Phúc không đồng tình với âm mưu đốn mạt ấy. Đường Cảnh Tùng nói tiếp, rằng Lưu không thuận theo như thế thì y không dám về phụng mạng “thiên triều” (22)!
Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường rất buồn lòng khi ngày càng hiểu rõ Đất nước đang phải đối đầu trước hai thế lực Trung Hoa và Pháp, cả hai đều muốn xâu xé Đại Nam ta! Liên minh với Trung Hoa trước sự xâm lăng cuồng bạo của Pháp, nước ta những muốn bước đầu thiết lập liên minh với các nước Phương Đông trước sự xâm lấn của Phương Tây, ngờ đâu lòng dạ Trung Hoa bành trướng mấy nghìn năm vẫn không thay đổi! Từ năm kia, thượng thư Nguyễn Văn Tường đã nói với nguyên hiệp đốc Tôn Thất Thuyết rằng, Đại Nam ta chân thành thiết lập sự liên minh với Trung Hoa và các nước Phương Đông; nếu Trung Hoa giúp Đại Nam một cách trong sáng, lịch sử sẽ mãi ghi đậm công đức ấy, nhưng nếu Trung Hoa có lòng dạ nào, thì Đại Nam phải thoát khỏi hai gọng kềm lịch sử, một bên là Pháp, một bên là Hoa, để giữ thế trung lập, và thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” sẽ phải bắt đầu!
Họp xong cuộc họp Viện Cơ mật – Thương bạc, hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết tâu lên vua, sau khi Hồng Hưu duyệt y. Dụ triệt thoái quân binh Bắc Kì, rút về bảo vệ kinh đô được ban ra, trong bối cảnh đau lòng ấy:
“… Nước Thanh ban đầu, từ sau khi quân Pháp đánh thành Chiêm Hà [Hà Nội và Chèm], họ lần lượt phái doanh đoàn đến đóng đồn ở các tỉnh biên giới ven nội địa và hai tỉnh Sơn (Tây), Bắc (Giang), tuy nói rằng để làm thanh viện cho lực lượng ta ở Bắc Kì, nhưng kì thực là để tự bảo vệ vững phên giậu của họ thôi…” (23) .
Viện – Bạc do phụ chính Nguyễn Văn Tường đứng đầu cho rằng:
“Nước ta ở giữa hai nước lớn, đối với nhà Thanh thì là kẻ “phiên phục” ngàn năm, theo nghĩa không nên đoạn tuyệt, mà đối với nước Pháp thì lại là nước xa lửa gần, thế buộc không đừng được. Chi bằng cứ đứng trung lập, đợi hai nước hành động thôi” (23) .
Pháp đã đơn phương xé bỏ “hoà” ước Giáp tuất 1874, dùng bạo lực đánh chiếm Hà Nội, Nam Định và cả cửa biển Thuận An, và đơn phương dự thảo hàng ước Quý mùi 1883! Hiệp Hoà, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp, đã triệt để “chấp hành” với quan điểm chủ “hoà” vị kỉ! Và Trần Đình Túc, vốn hưu trí, cũng đã quyết định một phần nào đó. Một điều hết sức khó khăn cho triều đình Đại Nam lúc này là thực dân Pháp nay chỉ vin vào “hoà” ước Quý mùi 1883 để bắt chẹt phải rút quân nước ta khỏi các cứ điểm phòng thủ xung yếu, khỏi các vị trí chiến đấu lợi hại!
Harmand từ Bắc Kì gửi văn thư vào cho De Cham-peaux, để y thương thuyết với triều đình. De Champeaux nói, “nước [Pháp] ấy định đánh quân Thanh, xin chỉ thị rõ cho cho quan nước ta không được phép thông lưng với quân nước Thanh. Nếu kẻ nào lưu lại giúp đỡ quân Thanh phải coi là trái mệnh triều đình” (24) . De Champeaux còn liệt kê một danh sách những quan ta cần triệt hồi (24)! Y đòi công khai cách chức những vị quan chống Pháp ấy (24)! Mặt khác, khâm sai đại thần Nguyễn Trọng Hợp lại tâu vào: “Chấp nhận tai hoạ, nên chọn cái nào nhẹ” (24) , và “xin triệu bọn Hoàng Tá Viêm về kinh để cho quan Pháp tự lo liệu, ngõ hầu đỡ sinh sự ra” (24) !
Trước tình hình đó, Viện – Bạc do phụ chính Nguyễn Văn Tường đứng đầu, tâu: “Xin cứ giữ lí của mình, trả lời bác [bỏ] đòi hỏi của họ [Pháp], mà lại triệt hồi bọn Hoàng Tá Viêm để chặn lời nói của người ta [Pháp]” (24) , đồng thời, viện dẫn “chỉ là quan giữ đất” (24), “đã triệt thoái về tỉnh Sơn [Tây]” (24) để tâu bày: “Nay nếu đem hai viên quan đó [Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản] kết tội là trái mệnh lệnh triều đình và yết cáo cách chức thì thật là phi lí trái tình. Xin nắm lấy lí đó mà phúc đáp cho họ” (24); “Nếu [lược bỏ hai chữ: “thế thì”] đem các viên quan đóng quân ở đó mà cách chức thì sợ không lấy gì để thoả mãn lòng người. Chỉ có quý sứ lấy làm điều, nhắc đi nhắc lại nhiều lần thôi” (24) !
Trong tình huống ấy, phải cứng rắn trong vẻ mềm mỏng chứ không còn cách nào khác. Dẫu sao, không thể không bảo vệ các quan chức trọng yếu, có tinh thần chống Pháp nhất của nước ta! Dẫu sao dụ triệt thoái ấy cũng chỉ là một thủ thuật chính trị, một thủ thuật đơn thuần là hình thức để đối phó.
Dụ triệt thoái quan binh Bắc Kì ngay sau khi vua Kiến Phúc lên ngôi được ban bố trong bối cảnh ngặt nghèo đó. Một nguyên nhân khác, là để vuốt ve tự ái của thực dân Pháp, sau khi lực lượng chủ chiến đã tiến hành đảo chính (truất phế, tử hình bè lũ thân Pháp) thành công, Pháp không giở được một động tác nào để cứu được Hiệp Hoà, Trần Tiễn Thành, như De Champeaux đã cam kết trước đó!
(Trong thực tế, mãi đến những tháng sau, khi tình hình đã đến mức Sơn Tây, Bắc Giang, Hưng Hoá thất thủ bởi quân Pháp, các quan ấy mới thật sự về kinh hoặc nạp ấn, trả chức, nhận ấn quân Thanh, tiếp tục kháng Pháp, hoặc bỏ đi nơi khác).

3

Không phải trước đây hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết không nắm được tình hình Bắc Kì, nhất là Ninh Bình, mặc dù “ở xã Phát Diệm trong hạt ấy có viên giáo mục [linh mục] Trần Lục thông mưu với sứ Pháp. Y chiêu mộ nhiều giáo dân và hàng nghìn tên vô lại, nhiều lần ra chặn bắt dịch phu để cướp lấy công văn. Các quan trú quân tại các tỉnh đều phải theo đường qua phủ Nho Quan mà đệ công văn về” (25) . Hai phụ chính vẫn rất rõ tội ác của Harmand và Trần Lục cùng các tên công sứ Pháp khác. Đến lúc này, họ càng rõ hơn nhiều chi tiết. Ở Ninh Bình, thành mới An Khánh, “thuốc súng và tiền thóc, vải vóc cùng với sổ sách, giấy tờ đều bị thu hồi. Các kho tàng của tỉnh ấy đều bị canh giữ nghiêm ngặt, không cho chi phát. [Pháp] lại sức cho dân phải khai nộp sổ đinh, sổ điền. Nơi nào nộp không kịp thì họ bắt viên tri phủ ra đánh, phạt roi, đòi thu thuế của dân. Tiền bạc trong kho đều bị họ thu giữ lấy. Có khi họ lại đem viên bố chính tỉnh đó ra núi Dục Thuý mà trói, có khi đem viên phó lãnh và nhân viên, lính hầu mà giam lại. Họ [:bọn Pháp] ngày càng thêm ngang ngược. Quan tuần phủ ở đó (bố chính, hộ lí) là Tôn Thất Uý thấy không thể cộng tác với họ được, lại nhân vì đường dịch trạm bị nghẽn tắc [do tên linh mục Trần Lục], bèn mật tâu, xin cùng với chánh phó lãnh binh thừa cơ trốn ra ngoài [thành] ở với dân, và tìm cách đặt trạm tạm thời để tiện đệ trình về [triều đình]” (25) . Thế rồi, các quan tỉnh phải bỏ đi, đem theo tất cả ấn tín, chỉ một mình án sát Phạm Hy Lượng bị ốm, còn nằm lại trong thành, không có gì, kể cả khuôn dấu án sát (25)!
Sau khi cửa biển Thuận An, cửa ngõ kinh đô Huế thất thủ, hàng ước Quý mùi (1883) vừa kí kết, lực lượng phản quốc “tả đạo” lại công khai lộ mặt tiếp tay cho bọn thực dân viễn chinh Pháp, như hồi Quý dậu 1873!
Ninh Bình cũng đã mất vào tay giặc Pháp và “tả đạo”!

4

Tháng mười một nguyệt lịch Quý dậu (1883), vẫn đang còn trong năm thứ ba mươi sáu thuộc niên hiệu Tự Đức. Hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại bàn với Hồng Hưu, đình thần, và tâu lên vua về việc Đại Nam vẫn quyết giữ mối quan hệ với nhà Thanh để tạo thế ngoại giao đối trọng, để tiếp tục thúc đẩy sự bùng nổ thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” , nếu Pháp không bỏ tham vọng xâm lược Bắc Kì, đòi “bảo hộ” cả Trung Kì một cách điên cuồng.
“Lấy viên hộ lí tuần phủ xứ Lạng – Bình Lã Xuân Oai sung chức hầu mệnh chánh sứ. Án sát sứ Lạng Sơn Hoàng Xuân Phùng làm phó. Lại xin đợi khi nào đường thuỷ, đường bộ đều thông mới sai cống sứ sang” (26) . Nhưng rất tiếc, thực dân Pháp vẫn quyết phá quan hệ ngoại giao của ta. “Sau đó, vì quan Pháp đòi ta tuyệt giao với nước Thanh nên không sai sứ đi nữa” (26) ! Không sai sứ đi nữa thì lại có cách khác!
Lúc này, tại kinh đô, đại lễ ở Đinh lăng, thượng thư Nguyễn Văn Tường lưu lại ở triều lo tuần kiểm, thượng thư Tôn Thất Thuyết lên lăng sung vào việc táng nghi thị hầu (27). Đại lễ vừa xong, tin về Sơn Tây lại bay trên lưng ngựa trạm vào kinh.
Trước đây, tên toàn quyền Harmand bị tên thiếu tướng Bouet bất bình, vì Harmand giải tán lính Cờ vàng do Bouet chiêu mộ, lập ra tính tuần cảnh “khố xanh”. Do việc Harmand xâm lấn quyền hành vào quân đội ấy, Bouet xin về Pháp, bàn giao lại binh quyền cho tên đại tá Bichot (28). Chính tên Bichot này đã được tên Trần Lục và giáo dân “tả đạo” phản quốc hỗ trợ, lại có thêm quân Pháp ở Sài Gòn ra chi viện, y đã đánh chiếm Ninh Bình (28). Khoảng ngày hai mươi lăm, cuối tháng chín nguyệt lịch, Quý mùi (1883), tên thiếu tướng Courbet được bọn cầm quyền ở Pháp chỉ định làm thống đốc quân vụ, kiêm toàn quyền ở Bắc Kì, và Harmand phải về Pháp (28). Courbet cũng đã phải đương đầu với vụ quân ta về đánh Hải Dương, đốt cả phố xá ở đấy (28).
Bây giờ, tên thiếu tướng hải quân Courbet này lại rắp tâm đánh thành Sơn!
Pháp đã nhiều lần tấn công thành Sơn Tây, nhưng lần nào chúng cũng bị đẩy lùi. Chúng thừa biết đấy là cứ điểm trọng yếu, đánh vào đấy là rúng động toàn Bắc Kì, nhưng lâu nay vẫn chưa một lần đánh thắng mà chỉ chuốc lấy bại trận. Lần này, Pháp tập trung một lực lượng quân lính và vũ khí, phương tiện hành quân lớn chưa từng có. Về quân số, chúng tập trung đến bảy ngàn (7.000) tên (29), trong đó, ngoài số lính Pháp viễn chinh, còn “có lính Ả Rập, tức là nước mỏm đầu châu Phi, bọn lính thú [gồm] có bọn lính Sài Gòn, tức là giám binh thuộc Nam Kì lục tỉnh [đa số là bị cưỡng bức cầm súng cho Pháp], lại có lính mộ ma tà, tức là bọn vô lại giáo dân theo mộ” (29) . Về tàu thuyền, số lượng đến mười lăm chiếc (mỗi chiếc đều có thêm lính mới mộ và phu tải), những thuyền buôn chúng thuê hoặc cưỡng bức áp tải quân nhu, lương thực (29)… Về chiến xa có đại bác, lên đến vài trăm chiếc (29). Tất cả binh lính của Pháp đều được trang bị súng đạn, không cầm cờ, không dùng vũ khí thô sơ như giáo nhọn (29). So với trước đây, quân đội Pháp đã hiện đại hoá hơn một mức.
Bọn Pháp xuất phát từ Hà Nội, tiến lên Sơn Tây bằng hai đường thuỷ và bộ. Đến ngày mười bốn tháng mười một nguyệt lịch, chúng lên tới, tiến sát vào thành Sơn Tây.
Đề đốc Tam Tuyên Lưu Vĩnh Phúc, Đoàn Dũng, thống lãnh doanh quân nhà Thanh Đường Cảnh Tùng, đốc đái quân Thanh Trương Vĩnh Thanh ra khỏi thành nghênh chiến. Quân thuỷ, quân bộ Pháp dựa vào nhau, tiến đến ngoài đê tỉnh thành Sơn Tây, tại các làng Phù Xa, Phù Nhi (29).
Trận đánh đầu tiên nổ ra từ giờ mão (05 – 07 giờ sáng) đến giờ dậu (17 – 19 giờ tối). Những đợt tấn công, đẩy lùi dã diễn ra suốt trận đánh hôm ấy. Quân Thanh thắng nhiều đợt, bắn chết hơn ba trăm (300) tên giặc, thu được súng cầm tay, cả đại bác. Đến tối, quân Pháp mạo hiểm chiếm đóng tại hai làng trên, quân Thanh cũng cũng thu quân, giữ chắc La Thành (29).
Đêm ấy đến sáng, Pháp cố đánh vào cửa bắc La Thành, chỗ giáp sông. Quân doanh đoàn bắn ra, giặc chết la liệt (29).
Ngày mười sáu nguyệt lịch, hai bên cứ nổ súng giằng co (29).
Ngày mười bảy nguyệt lịch, quân Pháp tập trung binh lực đánh vào các cửa phía bắc thành. Đại bác thuỷ, đại bác bộ cũng bắn yểm trợ và nã vào trong thành. Doanh đoàn cùng lính giữ thành bên trong bị thương vong khá nhiều. Giờ thân, gần hoàng hôn, một đội quân của tướng họ Lưu vượt thành tiếp chiến. Chạm súng hồi lâu, quân Pháp rút lui vài dặm. Đến giờ dậu, trời đã tối đen, Pháp lại quyết liệt tấn công mặt bắc thành, quân lính sợ hãi phá vỡ cửa thành mà thoát ra! Quân doanh bị vỡ! Đường Cảnh Tùng, Lưu Vĩnh Phúc, và cả các quan ta như tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận, cố ngăn cản quân bên ta lại vẫn không được. Pháp thừa thế trèo lên thành (29).
Sớm ngày mười tám nguyệt lịch (17.12.1883), Pháp chiếm được thành Sơn Tây!
Quân Thanh, quân Lưu Vĩnh Phúc và Đoàn Dũng rút về Hưng Hoá (tuần phủ là Nguyễn Quang Bích). Quân Đại Nam ta dưới quyền thống đốc Hoàng Tá Viêm và các quan như Lương Tư Thứ phải đóng ngoài La Thành, lại chỉnh đốn đội ngũ, luyện binh, sau đó về đóng tại Thục Luyện (29).
Quân Thanh đang chờ quân của tuần phủ Quảng Tây nhà Thanh Từ Diên Húc tăng viện.
Hoàng Tá Viêm cùng các tướng nhà Thanh bàn định lại việc phân bố chỗ đóng quân. Ông chuyển quân về Bắc Ninh. Tại đấy, ông viết tập tâu đệ trình vào kinh đô, xin nhận tội. “Vua [Kiến Phúc] theo lời bàn bạc của Viện Cơ mật [chỉ gồm hai đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] mà nghiêm khắc khiển trách, rồi dụ lệnh [cho thống đốc họ Hoàng] đến sát hạt Sơn Tây tụ tập binh dân sở thuộc” (29) , quân lính triều đình và cả lực lượng dân quân phải được tổ chức, phiên chế lại và tiếp tục được huấn luyện.
Quân Đại Nam ta, quân chính quy chủ lực và dân quân, hương binh vẫn tiếp tục phòng thủ và chiến đấu!

5

Cuối tháng mười một nguyệt lịch Quý dậu (1883), vua Kiến Phúc “chuẩn cho Bình Định và Hà Tĩnh đẩy mạnh thi võ cử và võ sinh (hơn 600 tên [:viên danh]), phân chia nuôi dưỡng, tập luyện” (30) . Đầu tháng mười hai, “[[vua (theo lời bàn của hai phụ chính)]] lại đặt hương binh ở các hạt thuộc miền Nam và miền Bắc. Vì các hạt phần nhiều đã tụ tập nhau lại, bảo vệ gia hương, cho nên ra lệnh thiết đặt lại” (30) .
Đặc biệt, tri huyện Dương Hữu Quang (người Hà Nội), đã ra hịch “người Pháp bội ước, nên không theo” (32) , và đã nhận trát dấy binh của quân Thanh, quyết chống Pháp, lập ra Tín Nghĩa hội (32). Quân của Dương Hữu Quang lên đến vài trăm viên, trú đóng tại các hạt thuộc Hà Nội, như Ứng Hoà, Thanh Oai. Bọn phỉ do tên Sô (hay So) cầm đầu, trước đây, nổi lên làm loạn, không tấn công trực tiếp vào bọn Pháp, mà chỉ tấn công vào quan quân phủ Ứng Hoà, cướp ấn phủ, thả tù phạm. Nay số quân do Sô chỉ huy đã đi theo Tín Nghĩa hội, chống Pháp dưới ngọn cờ quân Thanh! Không biết phải gọi Sô bằng gì? Trước đây, Sô là phỉ hay ít ra có hành tung như phỉ. Nay, Sô đã gia nhập Tín Nghĩa hội, nhưng đáng tiếc Tín Nghĩa hội cũng chẳng phải độc lập chiến đấu với danh nghĩa là nghĩa sĩ Đại Nam yêu nước, chống Pháp, không lệ thuộc triều đình, như Trương Định chẳng hạn. Do đó, quả thực, không biết định danh nghĩa cho quân của Sô là gì? Dẫu sao, Sô đã chận cướp được voi ngựa khi tên phó công sứ Pháp ở Ninh Bình giải giao cho tên công sứ Pháp ở Hà Nội (32). Thống đốc Hoàng Tá Viêm liền điều tra về hành tung tên Sô. Nay, do Hoàng Tá Viêm, số voi ngựa ấy được đệ nạp vào kinh.
“Đến lúc ấy, [Hoàng] Tá Viêm với những điều đã biết, bèn [theo] dụ lệnh, xem xét, quả là hướng thuận, lập tức thu nhận [vào quân của mình]” (32) .
Các sơn phòng đều được tăng cường quân địa phương lưu thủ, đóng lại để gìn giữ, đồng thời đưa lên các sơn phòng ấy những phạm nhân đã được sàng lọc. Sơn phòng Quảng Trị được nhận thêm ba trăm tám mươi lăm (385) phạm nhân, nhằm “tránh được việc giam giữ lâu mà tăng thêm nhân lực khai khẩn” (33) . Đó cũng là cách thức trước đây vua Tự Đức có lần nói: “Quân cảm tử phần nhiều ở trong tù phạm. [Nên] chọn lấy kẻ dũng cảm. [Vấn đề] chỉ ở tướng khéo khuyên dùng mà thôi” (34) .
Vua Kiến Phúc, với sự cố vấn của hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, đã thật sự khởi động mạnh mẽ việc chấn chỉnh lại quân binh sau một thời kì ngắn gần như bị tan rã, điêu đứng.
Trong thời điểm này, phong trào “sát tả” lại bùng dậy ở nhiều địa phương, nhất là ở Thừa Thiên, Quảng Trị. Bởi lẽ, “tả đạo” đã thật sự lộ mặt công khai tiếp sức cho thực dân Pháp. Tại Ninh Bình, sự thật về bản chất linh mục Trần Lục đã quá rõ với lực lượng phản quốc gồm những giáo dân bị mê muội hoá. Và, quân ma tà “giáo dân vô lại” đã gia nhập vào số lượng lớn lính mộ của bọn Pháp cướp nước, hại dân, để tiến đánh thành Sơn Tây trọng yếu của quan binh nước ta… Để tránh sự xung đột lương – giáo mà thực chất là thủ đoạn dùng người Việt đánh người Việt của thực dân, cố đạo Pháp, nên hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã viết một bản dụ thay vua Kiến Phúc với sự đồng ý của nhà vua và phụ chính thân đại thần Hồng Hưu: “Đạo – Bình đều là con đỏ của triều đình, nên yên phận đợi lệnh của triều đình, chớ nói nhăng, làm bậy” (35) . “Đạo”, chính là giáo dân (dân có đạo lí, có giáo hoá). “Bình”, tức là bình dân (dân lương thiện, dân có lòng hoà hảo). Nhưng phong trào “sát tả” vẫn không ngăn lại được!
“Một thời gian sau thì có thư của sứ Pháp là Săm Bô [De Champeaux] gửi đến, xin phái lính phủ đến bảo vệ giáo dân ở hai xã Thanh Tân và Sơn Quả. [[Triều đình]] chuẩn y, lập tức phái cử (lính phủ [Thừa Thiên]) đến bảo vệ; lại dụ phủ thần chia nhau đi hiểu tập [[giáo dân]]. Sau đó, công tử Hồng Thành (là con của Chấn Định quận công Miên Trí) cư tập đảng phái, thiêu đốt nhà cửa, giết hại giáo dân thuộc huyện Hương Trà: xã Dương Hoà, thiêu tám mươi chín (89) hộ, giết hơn hai mươi (20) người. Sự việc bị phát giác, án chưa thi hành, Thành bèn [bị] đổi ra họ mẹ; đợi đến tế giao đầu năm mới trảm quyết. Đảng ấy gồm bọn Trương Văn Đức, Trương Văn Định, đều đợi xét đem chém; còn ngoài ra, đều phải tội đồ, tội lưu” (35) .
Triều đình rất ngại bọn Pháp vin vào cớ “sát tả” ấy để đẩy nhân dân Thừa Thiên, Quảng Trị và các tỉnh khác vào thảm hoạ chiến tranh lương – giáo như ở Nghệ – Tĩnh hồi năm Bính tuất (1874). Chủ trương của hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vẫn là trừng phạt trọng hình những giáo dân đích thực là tay sai, gián điệp cho thực dân Pháp theo luật pháp. Phản quốc vốn là một án phạm trong thập ác, cho dù kẻ phạm thuộc tôn giáo nào, thành phần gì. Vì thế, triều đình “lại thông báo cho sĩ dân ở Quảng Trị biết để cảnh giới. Sau đó, lại báo cho các hạt có nhiều [nguy cơ xung đột] đạo – bình từ Nam chí Bắc đều biết” (35) .
Một cách rất kịp thời, trong thượng tuần tháng chạp Quý mùi (1883), một bản dụ thứ hai do hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã viết thay vua Kiến Phúc với sự đồng ý của nhà vua và phụ chính thân đại thần Hồng Hưu lại được công bố rộng khắp:

“VUA LẠI CHO DỤ ĐẠO – BÌNH Ở HAI MIỀN NAM – BẮC CÙNG YÊN ỔN” (36)(*):
“Dụ rằng:
Trời ban ân huệ cho dân, vua phụng theo mệnh trời. Những kẻ có tội hay vô tội, ta nào dám trái [mệnh trời ấy]. Theo trí ấy thì Đạo – Bình nước ta, tuy đi con đường khác, nhưng cũng là dân của trời, cũng dòng giống, không có gì khác nhau. Xưa nay triều đình vẫn coi trọng người theo lòng nhân, mọi người cùng nhau yên ổn. Nhưng gần đây, do sự kiện Bắc Kì, tin tức bay ra ngoài kinh đô, sĩ thứ, dân chúng nói càn, có kẻ bất bình vì hòa nghị [[với Pháp]], có kẻ phẫn nộ giết hại đạo Tả [[“tả đạo”, đạo Gia-tô]], bàn tán khắp đầu đường ngõ hẻm, ồn ào dao động, sao chẳng biết suy nghĩ sâu xa?
Còn như Đạo – Bình là dân nước ta, chiến hay hòa đã có triều đình lo toan. Còn như sĩ dân, nếu như có lòng trung nghĩa trong trắng, thì nên yên tĩnh mà đợi lệnh triều đình. Ta đã lấy lòng trăm họ làm lòng mình, các ngươi sao dám đem lòng mình làm lòng [căm hận] ấy mà lại càn rỡ chia rẽ? nhiều lần phân chia ranh giới? Các ngươi dám gây rối loạn, để tự mau chóng đi đến chỗ vong ơn. Lẽ thường, [[ta]] vỗ kiếm, giận dữ nhìn mà nói: “Các ngươi [bọn “tả đạo” thật sự theo giặc] sao dám chống lại ta?”. Nhưng sự dũng cảm của kẻ sất phu [:người quát mắng] này, không những vô ích mà lại còn có hại. Trước đây, cái án đốt nhà, giết người ở xã Dương Hòa, phủ Thừa Thiên, qua phân giải, thì bọn đầu sỏ và tòng phạm đều đã chịu tọâi chém và tội lưu. Triều đình sao mà dung tâm được.
Nay nghiêm sức cho bọn bầy tôi ở các phủ, huyện, tỉnh, từ Nam chí Bắc, lập tức đi xuống các hạt của mình, hiểu tập nhân dân, mọi người đều phải giữ yên phép tắc, không sai một tấc. Những kẻ ghét đạo tôn vương [[:Đạo Thiên Chúa]] và những người hiếu đạo tôn vương đều cũng được hưởng phúc thăng bình. Qua huấn sức này, nếu như còn chia rẽ, trừ bọn phạm tội ra, lập tức tăng cường thêm trọng trị. Bầy tôi ở tỉnh, phủ, huyện ra huấn sức không được nghiêm thì khó tránh phải tội lỗi, chớ nói là không bảo”” (36)
.

Khoảng đầu trung tuần tháng chạp này, viên toàn quyền Đức Lý Cố (Lý Cố, Tricou) vào kinh đô để bàn thảo những sự việc nổi cộm trong thời gian gần đây và xin triều yết (37)!
Tên toàn quyền Harmand đã bị triệt hồi về Pháp từ tháng trước. Trong tháng mười một, Harmand cùng khâm sai đại thần Nguyễn Trọng Hợp từ Bắc Kì vào Đà Nẵng trên một chuyến tàu thuỷ. Harmand hẳn vào Gia Định để về Pháp, còn Nguyễn Trọng Hợp ra Huế (37). Nguyễn Trọng Hợp đã biết Tricou sang thay Harmand, và Tricou sẽ vào kinh đô bàn việc. Ông ta tâu trình lên vua và các quan phụ chính.
Triều đình được chuẩn để bố trí nhân sự tiếp đón Tricou. Đoàn hộ tiếp gồm biện lí Bộ Công Trần Doãn Khanh, phủ thừa Thừa Thiên Đinh Viết Tân và tham biện ti hành nhân (thông dịch viên), linh mục Nguyễn Hữu Cư (37).
Tricou đến Sứ quán Pháp tại Huế, bên bờ phải sông Hương. Các quan Thương bạc của Viện Cơ mật được lệnh dụ hội đàm với Tricou, tên toàn quyền mang hàm tướng. Nội dung đã được hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bàn định trước trong nội bộ:
“Truất Mang [Hà A Mang, Harmand] trước nghĩ hoà ước hai mươi bảy (27) khoản. [Trong đó, có] nhiều điều không [ai] kham nổi. Và [Harmand] kịp về Bắc tranh trước bờ cõi [với quân Thanh] rồi hoành hành ngang ngược, [cùng] với các công sứ [:giặc Pháp], đến nỗi sĩ dân không yên với mọi sự!
Đông nam Hà Nội [Harmand] không giao [lại] cả. [Y] lại gây nên sự biến ở ba tỉnh Ninh Bình, Quảng Yên, Hưng Yên. Ba tuần phủ, có kẻ bị bắt, kẻ bị đánh. [Harmand] cùng với các công sứ [:giặc Pháp] giam quan tỉnh, đánh quan phủ, trách nã đề đốc, tư sức [:thông tư, ra lệnh] các phủ, huyện đợi chiếu chỉ [của Hiệp Hoà], phá bỏ khí giới, súng đạn, cướp đi kho bạc, buộc xé bỏ sổ sách đinh điền. [Tất cả những việc ngang ngược đó] dẫn đến [sự thể] quan thân, sĩ dân trung nghĩa đều phẫn khích. Có người uống thuốc độc, có kẻ nhảy xuống sông tự tử, có kẻ mang ấn ra khỏi thành, nạp ấn rồi bỏ [chức] quan, truyền hịch khởi binh. Có chỗ đánh sứ Pháp, hoặc có chỗ giết phái đoàn Pháp. Bọn côn đồ [đục nước béo cò] nhân đó mà làm nhiều điều xấu xa, tổn hại. Tất cả đều do quan toàn quyền [Harmand] gây nên” (37)
.
Văn thư tố cáo ấy được chuyển “đến chỗ nghị bàn của Lý Cố [Tricou, tại Sứ quán Pháp ở Huế], đòi hợp với công pháp, để làm cho vững vàng sự hoà hảo. Lý Cố đệ thư xin nhập triều yết, cùng nhau kí tên đóng dấu và nhận thư giao ước, chỗ cần thì châm chước sửa đổi. [Y hứa sẽ] xin đệ hồi [:trình lại] giám quốc [tổng thống Pháp] nghĩ định” (37) .
Trong việc bàn bạc này, hai bên còn đồng thuận mỗi bên bố trí một toàn quyền đại thần coi giữ quan ải. Những giao ước tạm thời, sơ bộ ấy đều có văn bản lưu (37). Sau đó, Tricou vào triều yết vua Kiến Phúc (37).
Đó là cuộc hội bàn một tạm ước sơ bộ để tiến đến việc sửa đổi lại “hoà” ước Quý mùi (1883).
Tricou ra Bắc Kì, rồi y mới về Pháp (37).
Không có những cuộc chiến đấu với việc đồng thời lại chuẩn bị chiến đấu, không có sựï phản ứng quyết liệt của các quan quân, của nhân dân, thì bọn Pháp tham lam, cuồng bạo không bao giờ chùn tay!
Sau khi Tricou về Pháp, chánh phó khâm sai ra Bắc Kì Nguyễn Trọng Hợp, Trần Văn Chuẩn đều bị giải chức và chờ lệnh vì thương thuyết không có công trạng gì (38). Đó là nguyên tắc xưa nay.
Cũng trong tháng chạp Quý mùi (1883) ấy, quan đệ nhị phụ chính Tôn Thất Thuyết quyết chỉnh đốn, tăng cường Phấn Nghĩa quân (39). Phấn Nghĩa quân là lực lượng trung kiên, nhưng vẫn có kẻ xấu không thiện cảm, gán cho họ danh từ bất nhã là “lính chân tay riêng của quyền thần” !
“Lúc đó [tháng bảy, tháng tám Quý mùi (1883)], [Tôn Thất] Thuyết muốn lập lính chân tay riêng mình, bèn thương lượng với Nguyễn Văn Tường, nói rằng:

“Tiến hành vào ngày 29 tháng 10 là quan trọng nhất [đó là ngày nhóm chủ chiến triều đình Huế tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Hiệp Hòa cùng những kẻ đồng mưu, câu kết với giặc Pháp]”.
Hai viên quan này [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] cùng với những đình thần đã dự biết trước nên ai nấy giao cho những người thân thuộc tham dự vào việc hiểu dụ các thân hào sĩ dân kết đảng làm theo. Lần này, qua chọn lọc số người trong đó mà ban thưởng. Ngoài ra tuy [nhiều người] chưa được dự vào phái cử, nhưng đều vui lòng đáp ứng.
Gần đây [tháng chạp Quý mùi (1883)], nhiều người làm theo; nay các binh ngạch thiếu nhiều, nên nhân tình hình ấy mà thu dụng họ, xin hội đồng Binh bộ xét tuyển dụng được bao nhiêu lính (nhưng không được khấu giản), chia làm vệ đội; lượng mà thiết lập quản suất, tùy số mộ được nhiều hay ít mà thưởng phẩm hàm; đặt tên là “Phấn Nghĩa quân”. Số quân đó được khao thưởng và đặt tên riêng; chiểu theo thứ tự, tuyển hai vệ tiên phong, nhưng vẫn lệ thuộc vào các viên quan mà hai vị thần đó [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] ủy nhiệm cho, để luyện tập và phân phái.
Theo thời kì này thì hữu dụng, nên ([quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn] Tường) cho phép.
Sau đó [Tôn Thất] Thuyết cho Trần Xuân Soạn lãnh [nhiệm] số quân ấy” (39)
.

Trong thời điểm ấy, ở Bắc Kì, tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản tâu vào triều, “tàu thuyền của Pháp hiện đang dò xét quấy nhiễu các giang phận hạt này. Bọn Hán gian thỉnh thoảng hò hét tụ tập, xin cho nhiều tốp binh dõng đến chi viện và phân phái nhau đi trừ dẹp…” (40) . Ông còn xin cho phép bố trí thêm một số quan võ để cùng lo liệu. “(Tôn Thất Thuyết) hứa cho, nhưng vẫn lệnh sức các xã dân, ai nấy đem hết sức lực ra chống cự (với giặc) để tránh khó khăn sau này. Trong đó, có ai hơn chút ít, thì đặc cách khen thưởng để khuyến khích họ” (40) .
Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết đã chú trọng đến sức mạnh nhân dân, hướng đến chiến tranh nhân dân.
Quan phụ chính Tôn Thất Thuyết lại được lãnh thượng thư Bộ Lại, kiêm chưởng sự vụ Bộ Binh, kiêm quản Văn ban phò mã (41).
Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường lúc này lại quay ra Cam Lộ, Quảng Trị để bắt tay vào việc xây dựng thành Tân Sở (42). Do đó, việc triều chính ông giao hết cho đại thần Tôn Thất Thuyết (giữ cả Bộ Lại lẫn Bộ Binh…), mặc dù ông vẫn vào ra. Huế – Cam Lộ, chỉ cách nhau khoảng một trăm rưỡi dặm ta (425 m x 150 = khoảng trên 70 km). Đây là kế hoạch của ông và nguyên án sát Nguyễn Quýnh hồi ông còn làm tri huyện, bang biện khâm phái Thành Hoá, từ hai mươi lăm năm trước, trong những năm Pháp bắt đầu nổ súng vào Đà Nẵng, xâm lược nước ta bằng súng đạn của lực lượng viễn chinh (42).

“DI CHUYỂN NHA ĐÓNG Ở SƠN PHÒNG QUẢNG TRỊ CÙNG VỚI NHA Ở PHỦ CAM LỘ (43):
Nguyên Nha Sơn phòng và Phủ Cam Lộ truớc đặt ở địa phận xứ Động Ngang, huyện Thành Hóa. Quan Cơ mật viện tâu rằng: “Sơn phòng của Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô. [Vua] chuẩn cho quan Sơn phòng này xem xét tường tận lại, tăng thêm kinh lí. Quan nối theo [:kế nhiệm] coi Sơn phòng này cho rằng, địa thế ở đây chật hẹp; đã khảo xét được nơi liền với chỗ đất cũ này là ở trên địa phận xã Bảng Sơn. Tương truyền nơi đây trước kia có con cầu [[:một loại rồng có ngà]] hoạt động, cho nên tục gọi là Lang Cầu. [Vùng đất ấy], địa thế rộng rãi, có thể chứa được một khu kiến trúc lớn di [dời] về đây. Xin cho di [dời] đến. Phủ [Cam Lộ], Nha [Sơn phòng Quảng Trị] cũng xin chuyển đến phòng nội”. (Vua) chuẩn y.
Đến lúc ấy, bèn chuẩn cho đắp thành, đào hào, xây cất nha thự, kho súng, nhà lính, cùng với các toà kì đài, pháo đài, chọn nơi di chuyển trấn Lao Bảo. [Đồn] bảo nguyên là nơi giáp giới ba phường Tân Mỹ, An Mỹ, Linh Xuân ở biên giới Man [biên giới Lào – Việt; dân ngoài biên giới đều gọi là Man, kể cả Pháp, Hoa], nay chuyển đến châu Na Bôn, cách (Lao) Bảo hai ngày đường. Thổ chướng (ở đây) hơi nhẹ. [Đồng thời, chuẩn cho] thiết lập nhà ở và làm việc cho các quan viên văn võ, đặt ra kho thuốc [súng], nhà lính, xưởng voi.
Lại đặt ra kì hạn mua muối. Sáu châu mua muối trước kia thì không có hạn nào, nay lượng xem dân số mua muối là bao nhiêu, đều phải có đầu mục nhận thực, để phân biệt rõ người lạ, người quen trong đám Man dân. (Lại) đặt cơ Can Thiện để quản thúc bọn tù khẩn hoang ở đây; quyền suất đội chia đi đồn trú và đào hố để tránh nạn hổ dữ.
Thiết lập đồn Động Chu. [Đồn] đóng ở thượng du, từ sườn núi lên đến đỉnh núi phải mất nửa ngày đường, khác nào chiếc thang lên trời. Từ Sơn phòng đến đây mất ngày rưỡi đường. Đường đi bằng phẳng, (nhưng) địa thế hiểm trở, cho nên đóng đồn ở đây.
Khai quặng sắt (gần sở phòng để tiện việc đúc [khí giới]). (Việc) kinh lí trước sau, đều chuẩn cho tỉnh thần kiêm coi giữ” (43)
.

Đó là một công việc do quan phụ chính Nguyễn Văn Tường đích thân thiết kế, chỉ đạo xây dựng, đích thân chỉ đạo khai thác (42). Nhưng rất tiếc, công việc ấy phải huy động một số lớn nhân công, dân công và binh lính, có đến hàng vạn người, trong nhiều tháng. Vả lại, bọn cố đạo Pháp vốn đã được “hoà” ước Nhâm tuất 1862 cho phép sống và truyền giảng đạo ở các giáo xứ. Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên không phải không có các giáo xứ! Thường là mười tên cố đạo đều là mười tên gián điệp! Do đó, thực dân Pháp không thể không biết công việc xây dựng Tân Sở với các công việc khác phục vụ cho Tân Sở. Nhưng bọn Pháp không được quyền bén mảng đến vùng đất ấy, mặc dù chúng hay tin từ các gián điệp linh mục, giám mục Pháp. Pháp vẫn tìm cách xem bản đồ! Chúng rất chú trọng đến quặng mỏ!
“Khi đó, sứ Pháp phái người đến xem bản đồ, nói là để chuẩn bị bản đồ toàn cảnh [!]”(43) .
Tất nhiên, nếu cho Pháp xem bản đồ, thì đấy là bản đồ giả. Ai cũng biết thế.
Và công việc vẫn cứ tiến hành, không cách nào khác.
“Lại mở hai thượng lộ, phía nam thông đến kinh phủ [Huế], bắc thông đến Quảng Trị, sơn phòng; có lẽ ý ấy là muốn củng cố con đường phía sau để bảo vệ kinh sư vậy. Tiếp đó, lại đem thuốc súng, vàng bạc, tiền nong về trữ ở (Sơn) phòng ấy khá nhiều” (43) .
Tại sao phải xây dựng Tân Sở, lập các đồn quanh đó và mở hai thượng lộ? Quan Viện Cơ mật, gồm Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, cho rằng: “Sơn phòng của Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô” (43) . Thật ra, từ trước đến nay, Tôn Thất Thuyết chưa hề biết Thành Hoá hay Tân Sở cùng thượng đạo là gì. Hậu lộ, đó là đường thoát phía sau. Tân Sở là cơ sở mới, là kinh đô thứ hai, kinh đô kháng chiến, một an toàn khu (ATK.), rất khó bị Pháp tấn công nhờ địa hình, địa thế hiểm trở. Tân Sở là căn cứ địa xa vùng biển. Tuy Tân Sở cũng chỉ cách sông Hiếu khoảng ba, bốn dặm (mỗi dạêm ta bằng bốn trăm hai mươi lăm mét Tây), nhưng vẫn là quãng thượng nguồn sông ấy. Thượng nguồn không thuận lợi đối với tàu binh lớn… Tân Sở phải cách xa biển và sông, nhất là phải cách xa biển, bởi đường sông, nhất là đường biển, vốn là thế mạnh của hải quân, thuỷ quân Pháp.
Nếu Tân Sở lại bị thất thủ, nhà vua và triều đình có thể theo đường núi (thượng đạo xuyên Trường Sơn với hệ thống sơn phòng các tỉnh) để ra Bắc hoặc vào Nam, hoặc qua Xiêm (Thái Lan). Tất nhiên hướng ra Bắc được chú trọng hơn, bởi có thể thoát qua Trung Hoa.
Các phương án đã được vạch ra một cách cẩn trọng. Mỗi phương án đáp ứng với từng tình hình, từng mức độ tấn công của giặc Pháp.
Mặt khác, ngoài những công việc đối phó với giặc Pháp, chuẩn bị kháng chiến chống Pháp, triều đình vẫn có lệnh cấp tiền tuất và cấp dưỡng cho vợ con của quan quân thuộc quyền Lưu Vĩnh Phúc, để tỏ lòng trọng nghĩa, ý hướng vẫn tiếp tục sử dụng lực lượng này (44). Đồng thời, cũng cấp tiền tử tuất và cấp dưỡng như vậy cho gia đình quan quân ta hi sinh vì Tổ quốc ở Thuận An (45)… Các doanh vệ biền binh ở kinh đô đều được kiểm tra thể lực và tuổi, để kiện toàn lực lượng (45).
Đặc biệt, Nguyễn Xuân Phiếu như một kĩ sư thành thạo, đã nỗ lực tìm cách chế tạo bằng được súng máy mới nhất của hai nước Hoa Kì và Đức (ngoài ra, các loại vải vóc khác của Tây dương cũng do xưởng của ông thí nghiệm, giảng dạy, học tập cách dệt) (46).
Đó là những nỗ lực bước đầu của triều đình Kiến Phúc với sự cố vấn tối cao và quyết định của hai đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, có sự giám sát của phụ chính thân đại thần Hồng Hưu.

6

Tình hình sau “hoà” ước Quý mùi (1883), có những điều rất đau xót và oái oăm. Bọn Pháp ở Sứ quán tại Huế, trước đó chỉ một viên khâm sứ và dăm bảy người phục vụ, kể cả y bác sĩ và thợ làm bánh mì, đầu bếp. Nay chúng lại có cả quân lính, không những dưới cửa Thuận An mà ngay tại Huế. Chúng lại ngang nhiên đi do thám ngay dưới mũi súng và họng đại bác của tướng quân Tôn Thất Thuyết, danh tướng Ông Ích Khiêm, của ba viên tướng khác cũng rất lừng lẫy: Trương Văn Đễ, Trần Xuân Soạn, Vũ Văn Đức… Đúng ra, vừa đau xót, oái oăm vừa buồn cười.
“Khâm sứ Săm Bô [De Champeaux] viết thư nói rằng: “Quan Pháp do thám đã bị dân xã An Truyền, huyện Phú Vinh [:Vang] cười giễu và lính (Pháp) ở đấy [xã Nhiêu Tập] thổi kèn ở ngoài Sứ quán, đã bị trâu húc bị thương, nên ra lệnh cấm chỉ”” (47) .
Trước đây, công sứ (résident, consul) Pháp lại ngang nhiên lên đến Khiêm lăng, nơi Khiêm hoàng hậu Vũ thị (nay là hoàng thái hậu) cư tang, đến mức quân lính bảo vệ tại đấy không ngăn cản được (48)! Hình như y có tìm gặp Khiêm hoàng hậu, dưỡng mẫu của Dục Đức (Ưng Chân). “Dục Đức ngày trước, khi vua Dực tông [Tự Đức] hãy còn, thường hay đi lại với người Pháp” (49) , cụ thể là Rheinart và các cố đạo như Caspar ở nhà thờ Thiên Chúa giáo tại Kim Long, cách bờ kinh thành về phía tây khoảng vài trăm mét (qua môi giới là thầy dạy tiếng Pháp: linh mục thông ngôn Nguyễn Hữu Cư) (49). Phải chăng De Champeaux đã tìm gặp Khiêm hoàng hậu để mưu tính việc đưa Dục Đức trở lại ngai vàng? Không tài nào biết được! Lúc này, tháng chạp Quý mùi (1883), Dục Đức vẫn cùng con cái, thê thiếp sống và học hành tại Giảng đường Viện Thái y. Mặc dù hoàng thái hậu Vũ thị vẫn cư tang tại Khiêm cung, nhưng dĩ nhiên hai mẹ con vẫn thường thăm viếng nhau. De Champeaux lại đến tìm gặp, chứ y không lạ gì Khiêm lăng mà đến chơi xem! Quả thật, không rõ. Nhưng cảnh giác vẫn hơn. Triều đình cố nhiên phải rút kinh nghiệm từ vụ Hồng Bảo, Đinh Đạo. Do đó, phải xây dựng lộ giới bằng trụ gạch để ngăn cách Khiêm cung (48), như một cách tăng cường giám sát, quản chế. Đó cũng là một bi kịch đau lòng. Và sự thể tên khâm sứ ấy, cũng rất đáng căm giận!
Không những do thám ngay tại kinh đô, thực dân Pháp cùng cố đạo Pháp vẫn âm mưu lũng đoạn ngai vàng, một âm mưu đã có từ rất lâu và ngay từ thời giám mục Pellerin (50)… Chẳng những thế, thủ đoạn lợi dụng giáo dân người Việt mình vẫn tiếp diễn! Giáo dân vì mê tín, sinh ra dại khờ, mê muội đến mức phản quốc, chỉ mong thăng thiên về Nước Chúa hoặc mong “nước Cha trị đến” (51) . Vì sợ sẽ lại có những tên cỡ như linh mục Trần Lục ở Ninh Bình vài tháng trước, nên Trương Văn Đễ ra các tỉnh hữu kì.
“Biện lí Bộ Binh Trương Văn Đễ sung khâm phái, ra Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, cáo rõ cho các quan tỉnh biết xét dò tình thế, để trấn áp quần chúng nổi lên [gây chiến tranh lương – giáo]. [Ông] bèn lưu ở Thanh Hoá, điều đình với đạo – bình [đạo: giáo – bình: lương], làm cho mọi người yên ổn. Lúc đó, tàu Pháp đến hải phận bốn tỉnh ấy, có chiếc đã bỏ neo ở Nghệ An, Thanh Hoá, có chiếc đậu ở bến các hạt thuộc Quảng Bình, Hà Tĩnh. Giáo mục [:linh mục, giám mục] và giáo dân ngầm đến tàu này xin viện trợ. Quan tỉnh này sợ rằng lại xảy ra như việc ở Ninh Bình, ai nấy đều xin thúc [giục] binh [lính] di chuyển tiền bạc, để trấn tĩnh, hiểu dụ họ. Nhưng [tình hình xung đột] đạo – bình ở Thanh Hoá không yên (sau khi cái án thiêu sát giáo dân đã được phát giác rõ). Giáo mục có người xin phái mộ binh của Pháp đến giữ nhà thờ. Nhân đó (mà) cho phép [biện lí Trương Văn Đễ] đến điều đình để yên dân” (52) .
Máu cuộc chiến tranh lương giáo Nghệ – Tĩnh từng lan ra cả Bình lẫn Thanh mười năm trước chưa khô, với thù hận dai dẳng đến nay còn kêu đòi, cả vụ Trần Lục phối hợp cùng Bouet tại Ninh Bình vài tháng trước vẫn đang là một nỗi đau xót, lại thêm vụ “sát tả” (thiêu sát “tả đạo”) mới đây tại Thanh Hoá, tất cả cũng chỉ máu người Việt đổ, nhà người Việt cháy!
Vị vua trẻ Kiến Phúc, hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng các tôn nhân, triều thần, quan tỉnh không thể không tìm cách dập tắt ngay từ đầu mối xung đột lương – giáo do bọn Pháp xúc xiểm để li gián và gây rối, nhằm tạo cớ xâm lược với chiêu bài “bảo hộ”!
Tiếp theo chuyến công cán điều đình về xung đột lương – giáo của Trương Văn Đễ, các quan phụ chính liền bàn việc “trước tiên là chuyển thư của sứ Pháp [Tricou] nghị xử về sự kiện Bắc Kì” (53) , để can thiệp, ngăn chận sự lộng hành của các tên công sứ Pháp và trấn tĩnh phản ứng của quan dân ta trước thái độ hống hách, ách bạo quyền của chúng ngoài đó. Bấy giờ, De Champeaux ở Huế cũng đệ gửi văn thư qua Nha Thương bạc để nhờ chuyển lên Viện Cơ mật:
“Đờ Li Cô [:Lý Cố, Tricou] đến Bắc Kì bàn bạc với tướng Pháp là Cô Phi [:Cô Bi, Courbet], nghiệp sức [:đã lo sợ thông tư] cho các công sứ [Pháp] ai nấy đều phải yên tĩnh, phàm quân sự, dân sự ở các tỉnh đều không dự vào” (53) .
Đoàn khâm sai do Nguyễn Trọng Hợp dẫn đầu cũng đã vào Huế, không thể không có đoàn khâm sai khác ra Bắc Kì. Bấy giờ, “quan các tỉnh đều không muốn làm việc, đến nỗi người ta hết thảy hoài nghi, trộm cướp nổi lên tứ tung; [các quan tỉnh ngoài ấy] xin cử cán viên đến gấp để xử trí, kịp sớm yên ổn” (53) .
Trong các thời đoạn lịch sử gay go, chính quyền không kiểm soát được trật tự, trị an, thường thấy có nhiều đám trộm cướp nổi lên trấn lột, vơ vét, hôi của. Trong giai đoạn này, bọn công sứ Pháp lộng hành, Bắc Kì đã bị chúng cưỡng chiếm bằng vũ lực và bằng hàng ước Quý mùi (08.1883), quan triều đình bất hợp tác, vả lại, quân Thanh kéo sang ngày càng đông, cho nên, trộm cướp đủ loại (giặc Cờ đã vỗ yên, thảo khấu, thuỷ phỉ, hải tặc, Hán gian…) không thể không ngóc đầu dậy. Đó là một mặt. Mặt khác, nghĩa quân đã tự động khởi binh chống Pháp (một số, tiếc thay, theo quân Thanh!). Lòng yêu nước truyền thống của nhân dân Bắc Kì đến lúc này đã bùng dậy, tuy vẫn có người “đánh cả triều [đình] lẫn Tây”, một cách tự phát. Đã là tự phát, lại tự phát trong bối cảnh hỗn mang như thế, nên trong các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, bên cạnh sự sáng suốt, tỉnh táo, còn có sự quờ quạng, nhầm lẫn. Do đó, đoàn khâm sai do thượng thư Bộ Công Đoàn Văn Hội, sung biện Nội các, tham biện Viện Cơ mật Hoàng Hữu Thường, dẫn đầu, lang trung Bộ Lại Lê Cơ làm tham biện của đoàn, đã “đi ra Bắc Kì để khu xử, hiểu tập, động viên nghĩa quân” (53) . Đoàn khâm sai và quân binh tuỳ tùng, hộ tống lên đến năm mươi (50) viên.
Các quan phụ chính đại thần và thân đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và cả Hồng Hưu đều chú ý vừa giải quyết tình thế vừa “hiểu tập, động viên nghĩa quân”. Nghĩa quân là lực lượng hương binh, dân quân (dân được trang bị vũ khí để bảo vệ làng xã) đã khởi nghĩa chống Pháp. Đó là một lực lượng rất cần sự hướng dẫn, huấn thị và khích lệ, động viên của triều đình.
Tháng chạp, thời tiết vẫn mưa và rét buốt. Trời đất đã bắt đầu vào những ngày hạ tuần, sắp chấm dứt năm Quý mùi (1883, bước sang 1884) nhiều biến động đau xót.
Tuy nhiên, vụ thất thủ Ninh Bình vẫn chưa được ổn định lại, xem ra vẫn còn khó khăn, phức tạp và gay gắt hơn. “Tháng trước, vì công sứ [Pháp] tỉnh này ngang ngược, tàn khốc, không thể ở chung được” (54) , nên hộ phủ Ninh Bình Tôn Thất Uý “đem dấu tuần phủ cùng ấn triện án sát mà đi khỏi thành” (54) . Ông đến Nha Sơn phòng tỉnh, giao ấn triện án sát cho sơn phòng sứ Lã Năng Hoằng, để quan họ Lã kiêm giữ (54).
Lúc ấy, khâm sai Nguyễn Trọng Hợp chưa về lại kinh đô Huế, ông ta bàn với tổng đốc Hà [Nội] – Ninh [Bình] đề bạt Phạm Hy Lượng lên chức tuần phủ và đặt thêm một vài viên chức khác, như tri phủ Thường Tín Hoàng Dụng Tân thăng lên án sát. Nhưng Tôn Thất Uý không chịu giao ấn triện (54).
“Nguyễn Hữu Độ lại nói với (viên công) sứ [giặc Pháp] là [Hoàng Dụng Tân] chờ sau [sứ] sẽ khắc [khuôn] dấu cho. Nhưng [y] sợ! Cơ mật viện [hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] tâu lên (vua) rằng: “Hiện nay ở phủ niết [:án sát] tỉnh Ninh Bình này, không thiếu nhân viên, mà [Nguyễn] Trọng Hợp và [Nguyễn] Hữu Độ trước đã sơ suất, muốn mở rộng quyền hành. [Phạm] Hy Lượng và [Hoàng] Dụng Tân lại không lượng được mình, tuỳ tiện nghe theo ngay, dẫn đến chỗ không có ấn, gây ra chuyện lôi thôi; lại còn có ý chờ đợi (công) sứ [Pháp] cấp ấn cho. Nói như vậy thật khó nghe”. Việc xin quyền cấp phủ niết [:án sát] không được phê chuẩn thi hành, mà việc phân xử [phạt, giáng] mỗi người khác nhau [tuỳ mức lỗi]” (54)
“Đến lúc đó, Săm Bô khâm sứ đóng ở kinh đô viết thư nói rằng: “Công sứ [Pháp] ở các tỉnh đều không tham dự vào việc này”” (54) .
Nguyễn Trọng Hợp, Hoàng Dụng Tân, và nhất là Nguyễn Hữu Độ, đã bộc lộ thói cơ hội xu thời, sự đê tiện thật đáng khinh. Về Tôn Thất Uý, ông vẫn đang cùng các quan chánh phó lãnh binh tìm nơi hẻo lánh, hiểm trở để ẩn núp, sau khi “trải việc Pháp phái [viên] lại và lính mộ đến đốt phá” Nha Sơn phòng và Nha huyện Yên Hoá (54). Ông đã có chỉ dụ từ kinh đô chuẩn cho về tỉnh, “rốt cục, vì quan Pháp gây trắc trở, nên chưa thể về” (54)!
Đó là nỗi đau xót Ninh Bình. Từ khi thành Sơn Tây bị thất thủ, tình hình cũng rất đáng lo ngại: “Côn đồ khắp nơi nổi lên như ong” (55) . Đường dịch lộ từ Mỹ Đức thuộc Ninh Bình đến Sơn Tây không thông, công văn bị ách tắc. “Các phủ huyện Mỹ Lương, Quốc Oai, Thạch Thất đều trở thành nơi tấn công và chiếm cứ của bọn phỉ” (55) . Đó là thời cơ của bọn giặc Cờ, giặc trốn nước Thanh, bọn thổ phỉ, lục lâm thảo khấu! Hai đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết tấu chuẩn, lệnh cho Hoàng Tá Viêm lập tức về đóng quân tại Sơn Tây và đồng thời chỉ đạo cho các hạt khác tiễu phỉ để ổn định tình hình.
Cũng tại Sơn Tây, sau khi thất thủ, các quan tỉnh chuyển đi đóng trụ sở tạm ở Trù Biện, không về lị sở cũ. Tay sai đã lộ mặt là Nguyễn Hữu Độ lại đang nịnh bợ tên tướng Pháp toàn quyền Courbet!
“Tướng Pháp là Cô Bi [Courbet] thúc giục hộ đốc Hà Nội là Nguyễn Hữu Độ chọn người thay thế! [Nguyễn] Hữu Độ chọn Nguyễn Khuyến (lãnh trực học sĩ, dưỡng bệnh tại quê) quyền lãnh tổng đốc, Thành Ngọc Uẩn (thị độc học sĩ đinh gian trung chế) làm quyền bố chánh sứ. (Hai ông) đều không đến [nhậm chức]. Thế nên, bèn lấy nguyên tú tài theo đạo (giáo) [Thiên Chúa] là Nguyễn Trần Cáp, nguyên ngũ phẩm sung thương chính phó quản lí là Nguyễn Hậu bổ sung vào. Cáp: quyền tổng đốc; Hậu: quyền bố chánh; đều do quan Pháp [Courbet] cử ra.
Quan Cơ mật viện [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] biết được việc này, tâu [lên vua Kiến Phúc] rằng: “Trần Cáp tên cũ là Nguyễn Văn, can ngụy án đang trốn tránh, Hậu là lại điển xuất thân, không có trí thức nào khác, thỉnh [thị ý vua] không phê chuẩn”.
[Vua] bèn có lệnh cho Viện thần [hai đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] thương lượng với khâm sứ Săm Bô [De Champeaux], viết thư cho vị tướng ấy [Courbet] ngừng lại việc đó lại. Sau đó, ưng dùng nhân viên nào thì do bọn khâm sai Đoàn Văn Hội tiến cử, tâu lên bằng cách khác.
Lúc đó, Cáp và Hậu vẫn lưu lại để thi hành. Sau đó, [Đoàn] Văn Hội đến thương lượng với tướng Pháp [Cour-bet], xin để Nguyễn Trọng Hợp thay thế. Cáp mới về ngụ ở Hà Nội, Hậu vì can một khoản nên phải đuổi về” (56)
.
Xét cho cùng, rõ ràng hai đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và triều đình vẫn cố gắng nỗ lực đấu tranh với thực dân Pháp, mặc dù đang kẹt bởi “hoà” ước Quý mùi (1883), phải nhân nhượng ở hai điều khoản thứ năm (V) và thứ sáu (VI) quá bất lợi về phía nước ta:
+++ “Điều khoản V: Triều đình nước Nam sẽ ra lệnh cho quan lại ở Bắc Kì trở lại lị sở, bổ nhiệm các quan lại mới để điền vào những nơi khuyết, và sẽ lâm thời công nhận những sự bổ nhiệm của nhà cầm quyền Pháp sau khi đã có sự thoả hiệp của đôi bên.
+++ Điều khoản VI: Quan lại các tỉnh từ đường biên phía bắc tỉnh Bình Thuận ra đến đường biên Bắc Kì, lấy đèo Ngang làm giới hạn, sẽ tiếp tục do triều đình cai trị như xưa, không có bất cứ một sự kiểm soát nào của nước Pháp, trừ những công việc thuộc về thương chính hay công chính, và nói chung là những công việc cần có một sự chủ trương duy nhất và khả năng của các nhân viên kĩ thuật Âu châu”
.
Những ngày cuối năm Quý mùi (1883) vẫn mưa gió, rét buốt, đau đớn và xót xa, nhưng không phải không có khí thế hào tráng, thái độ kiên định, vẫn cứng rắn trong vẻ mềm dẻo.
Tuần phủ Từ Diên Húc lại sang vào những ngày cuối năm ấy. Triều đình Đại Nam vẫn tiếp tục ứng xử rất tình cảm và rất láng giềng với Từ Diên Húc. “Từ Diên Húc đến Lạng Sơn, yết cấm binh dũng các dinh quấy nhiễu, lệnh [?] cho tỉnh ấy phải cung ứng vật dụng (dầu, than củi, v.v…), đều có trả tiền. [Nhưng vua] chuẩn lệnh không cho nhận” (57) . Hai đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng triều đình, một mặt, vẫn tiếp tục chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến chống Pháp (xây dựng Tân Sở, tổ chức hương binh…), đồng thời mặt khác, vẫn đẩy mạnh thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” (ngồi trên núi xem hai con cọp đấu nhau) . Dẫu nhà Thanh có lòng dạ đen tối thế nào đi nữa (dám lạm quyền ra lệnh cho quan tỉnh ta!…), họ đã và vẫn sẽ đánh bọn thực dân Pháp những trận ra trò…

7

Tháng giêng, năm mới, Giáp thân (1884). Đây là năm Kiến Phúc thứ nhất, nhà vua đã tròn mười lăm tuổi ta.
Sau sinh nhật vua Kiến Phúc, mùng hai Tết Nguyên đán, không lâu, phái bộ Phạm Thận Duật và Nguyễn Thuật về đến kinh đô (58). Hơn một năm trời họ ở Thiên Tân, tỉnh trực lệ của nước Thanh. Quan họ Phạm vẫn được giữ nguyên chức cũ. Quan họ Nguyễn được thăng thự hữu tham tri Bộ Binh. Các tuỳ phái cũng được thăng thưởng (58).
Những ngày đầu năm “các quan trong Chính phủ [:Phủ Phụ chính] [với] ý muốn răn trị bọn mọt dân” (59) , liền lệnh cho các quan ở Bộ Hộ, Bộ Hình tra xét vụ án ở Quảng Điền, thuộc Thừa Thiên, khi vụ ấy được phát hiện (59).
De Champeaux cũng có lệnh về Pháp, Ba Rô (Pha Rô, Pareau) đến làm khâm sứ (résident) tại Huế (60).
Ở Bắc Kì, tên tướng Courbet vốn thuộc binh chủng hải quân. Nhưng quân Pháp tăng cường sang xâm lược nước ta hiện nay không chỉ hải quân của chúng, mà còn có một lực lượng lục quân (bộ binh, lính đánh bộ) lớn hơn cả số hải quân. Do đó, Courbet được thăng lên một bậc quân hàm, thành trung tướng, nhưng lại phải nhường chức cho Millot, một trung tướng lục quân vừa thăng thống tướng (61). Millot đến Bắc Kì ngày mười sáu tháng giêng Giáp thân (1883), giữ chức vụ toàn quyền, thống đốc quân vụ của Courbet trước đây (61). Courbet chuyên trách tất cả lực lượng hải quân viễn chinh Pháp ở mặt bể, nên có người ngỡ y đã về nước. Thật sự, Pháp bố trí Courbet ở chức vụ mới để bí mật chuẩn bị kế hoạch xâm lược và làm áp lực quân sự mới.
Lực lượng quân đội Pháp tại Bắc Kì đã lên đến một vạn sáu (16.000) tên và mười (10) đội pháo thủ, chia ra làm hai lữ đoàn. “Một lữ đoàn ở bên hữu ngạn sông Hồng Hà thì đóng ở Hà Nội, có thiếu tướng Brière de L’Isle [trông] coi. Một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà thì đóng ở Hải Dương, có thiếu tướng De Négrier [trông] coi” (62) .
Ít ngày sau, có sự thay đổi về chức vụ trong các quan Viện – Bạc đại thần. Tôn Thất Thuyết: lãnh thượng thư Bộ Binh, Nguyễn Văn Tường: lãnh thượng thư Bộ Lại (63), Phạm Thận Duật: lãnh thượng thư Bộ Hộ (sung làm Quốc sử quán phó tổng tài, kiêm quản Khâm thiên giám). Ngoài ra, Chu Đình Kế: tả tham tri Bộ Hộ; Nguyễn Thành Ý: thự tham tri Bộ Công. Và khai phục bước đầu cho các quan khác (63). Vũ Trọng Bình: thương biện tỉnh vụ Nghệ An; Nguyễn Chính (Chánh): Sơn phòng sứ Hà Tĩnh; Nguyễn Trọng Hợp: phó Sơn phòng sứ Thanh Hoá; Trần Văn Chuẩn: dinh điền sứ Quảng Bình; Bùi Ân Niên: tả tham tri Bộ Lại (63).
Đây là thời điểm khá gay go, nhiều thách thức, do đó, quan chức triều đình, nhất là ở các tỉnh không ít băn khoăn, dao động. Có nhiều người tìm cớ ở ẩn, như nhà thơ tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến chẳng hạn. Ông được cử vào sứ bộ sang Trung Hoa (64), nửa chừng có lệnh phải tạm dừng lại vì tại triều đình xảy ra vụ đảo chính Hiệp Hoà, thực dân Pháp lại làm sức ép về ngoại giao (64). Nguyễn Khuyến về quê ở ẩn với tâm trạng day dứt, bất lực trước thời cuộc, buông xuôi trước nguy nan, bế tắc của vận nước, của số phận nhân dân. Ông tự vẽ biếm hoạ về mình. Nói rõ hơn là Nguyễn Khuyến tự trào, tự khinh chính mình, tự đặt mình thấp hơn những người quyết không đầu hàng trước nguy nan, bế tắc:

Cũng chẳng nghèo mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng
Mở miệng nói ra gàn bát sách
Mềm môi chén mãi tít cung thang
Nghĩ mình mà gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng! (65)


Không làm tay sai cho giặc Pháp xâm lược như Nguyễn Hữu Độ là đúng, nhưng rất sai khi có nhiều người cũng cùng tâm trạng trốn tránh, đào ngũ như thế trước vận nước đầy khó khăn, thách thức.
Trước tình hình đó, hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết tâu lên vua, và sau đó có dụ “Triệu dùng các tiến sĩ, phó bảng tại quán và các ấn quan tại quán” (66) , để tập hợp lại những người đã làm quan, có tâm huyết, không thiếu nhiệt tình với Đất nước, nhân dân, nhưng hoang mang, chao đảo, buông xuôi, phó mặc, tập hợp những kẻ sĩ chưa được bổ nhiệm. Đồng thời, theo sự cố vấn của hai quan phụ chính, vua Kiến Phúc còn ban ra sắc dụ “Dạy khuyên các thần, công, trong kinh ngoài tỉnh” (67). Ở sắc dụ thứ hai, là lời trách cứ bọn cơ hội xu thời theo giặc Pháp hoặc gặp bối cảnh loạn li, đâm ra tự tác oai, tác quái:
“… Thế mà gần đây thấy quyền tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Hữu Độ, quyền tổng đốc Nghệ An là Trần Nhượng thiện quyền tuyển dụng bố chính, tự tiện lưu lãnh binh lại. Tuần phủ Hà Tĩnh Cao Hữu Sung, bố chánh Hải Dương Nguyễn Khắc Vĩ đặt thêm lãnh binh, tự hà chức thủ, hoặc không tâu cho biết, hoặc tâu mà không đợi báo tin, thậm chí có nơi khắc ấn tỉnh để thi hành. Lấy những việc làm như thế, rất trái đạo bầy tôi!…” (67) .
Tháng giêng năm Kiến Phúc thứ nhất đâu phải không cam go.
Tháng hai nguyệt lịch, định lại lệ chọn người làm phó quản đốc tàu thuỷ phải có đảm lực, dũng khí, chứ không chỉ văn chương, lại là thứ văn chương yếu ớt (68); nhưng đối với tàu ra nước ngoài, phải là cử nhân, tiến sĩ để đủ trình độ thu thập, nhận định (68)… Đó là một quan điểm coi trọng kẻ sĩ không chịu bạc nhược (68)…
Cũng trong tháng hai nguyệt lịch này, nhà vua, triều đình, hoàng thân thấy cần phải tăng thêm uy tín và quyền lực cho hai phụ chính đại thần để tiện điều động các quan tỉnh và quân thứ (70). Ở quan trường, chức tước vốn được xem là thước đo mức độ quyền lực và uy tín, các quan ứng xử, công tác cũng phải căn cứ vào đó, chứ không phải dựa vào tuổi tác hay cơ sở nào khác. Đó là nguyên tắc có hiệu lực, đồng thời là kỉ cương thực sự. Sinh thời, vua Tự Đức từng nói: “[Việc] triều đình, không gì bằng tước. Nhường nhau ở trong lòng mà thôi” (69) . Phụ chính thân đại thần Hồng Hưu, hoàng thân quận công Hoài Đức cũng được tấn phong, thăng chức ở Tôn nhân phủ để tiện giúp vị vua trẻ Kiến Phúc và hoàng tộc… Nguyễn Văn Tường được gia hàm thái phó, thăng thụ Cần chánh điện đại học sĩ, Vĩ quốc huân thần, tấn phong Kì Vĩ quận công (70). Tôn Thất Thuyết được thăng thụ hiệp biện đại học sĩ, Vệ quốc thượng tướng quân, tấn phong Vệ Chính bá (70). Hai phụ chính tuy được thăng tước vị mới, nhưng vẫn kiêm sung hàm như cũ.


8

Ngày mười hai tháng hai nguyệt lịch, Giáp thân (10.03.1884), tên trung tướng mới thăng hàm Courbet viết văn thư báo cáo về Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp tại Paris (71):

“Vịnh Hạ Long, ngày 10 tháng 03 năm 1884.
Kính gửi ngài bộ trưởng,
Nhằm bổ sung cho bản báo cáo của tôi đề ngày hôm nay về các hoạt động của sư đoàn hải quân, tôi trân trọng gửi đến ngài bản tóm tắt những nhận xét của tôi về các ý đồ của triều đình An Nam và các hoạt động của họ nhằm chống lại chúng ta.
Những nhận xét này đã có từ những tuần lễ trước, nay được kiểm chứng bởi các báo cáo mà tôi đã nhận được trong chuyến công du Quy Nhơn, Hội An và Thuận An vừa rồi.
Sau cuộc chính biến ngày 29 tháng 11 [1883] vừa qua, cuộc chính biến đã lật đổ vua Hiệp Hoà và dẫn đến việc bức tử nhà vua, triều đình mới biểu lộ gần như công khai thái độ thù nghịch đối với chúng ta. Việc ta chiếm giữ Sơn Tây, việc tăng viện lực lượng mới đây của ta buộc triều đình An Nam bề ngoài thay đổi thái độ nhưng bên trong, theo tôi, tình cảm cũng như mong muốn của họ vẫn không có gì thay đổi.
Theo ý tôi, chịu tác động bên ngoài từ các chiến thắng vừa qua của chúng ta ở Bắc Ninh, vị đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường dường như đang có trong tay các kế hoạch chống chúng ta. Từ quan điểm trên, tôi sẽ liệt kê ra đây những khó khăn và những trì trệ như việc ông ta chống đối [sự] phá bỏ đập ngăn trên sông Huế (sông Hương) theo thoả hiệp ngưng chiến ngày 21 tháng 08 [1883]. Mặc cho những đòi hỏi không ngừng của công sứ và khâm sứ, công việc đó vẫn không tiến triển chút nào. Mặt khác, những tên chủ mưu sát hại các tín đồ Thiên Chúa giáo, theo như đòi hỏi của chúng ta, đã bị bắt, bị kết án nhưng chưa được hành quyết [Hồng Thành…]. Trái lại, vị đại diện toàn quyền do ông Harmand thoả hiệp đã bị ngược đãi và bị bắt giam [Nguyễn Trọng Hợp, Hồng Phì…]. Theo lời của viên công sứ ở Huế, viên tổng đốc ở Hà Nội [Nguyễn Hữu Độ] đã bị giáng một bậc, viên quan ở Sơn Tây [Nguyễn Trần Cáp, Nguyễn Hậu…] do tôi bổ nhiệm đến nay vẫn chưa được phê chuẩn. Viên quan ở phủ Ninh Bình [Phạm Hy Lượng, Hoàng Dụng Tân…] mà tôi bổ nhiệm cũng vậy.
Về phần vị đệ nhị phụ chính đại thần, nguyên thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết, người ta bảo ông không buồn che giấu lòng thù hận khôn nguôi đối với chúng ta.
Tôi e ngại rằng lòng thù hận đó sẽ dẫn đến ngày mà chúng ta không mong đợi là vua được đưa đi xa hơn và triều đình được chuyển đến một thị trấn xa bờ biển, một nơi chúng ta khó gây áp lực hơn là tại Huế. Triều đình An Nam, từ nơi đó, có thể lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại sự bảo hộ của chúng ta. Chỉ điều đó thôi cũng đủ giải thích các cuộc nhập lậu vũ khí và đạn dược mà tôi đã biết một cách chắc chắn khi ngang qua Quy Nhơn. Ngoài ra, kế hoạch từ bỏ Huế đã được triều đình An Nam trù liệu từ lâu mà đối với chúng ta, sự việc này sẽ làm chúng ta vô cùng bối rối.
Theo ý tôi, việc chiếm giữ tức thì và bất ngờ kinh thành Huế là giải pháp tốt nhất để ngăn chận các sự việc nêu trên. Từ một ngàn đến một ngàn hai [1.000 – 1.200] quân, hai giàn trọng pháo, phối hợp với đội quân đồn trú tại Thuận An, chúng ta có thể thực hiện tốt việc chiếm đóng này.
Trước chuyến đi Quy Nhơn, tôi đã thăm dò ý kiến của tướng Millot liên quan đến việc thực hiện dự án này. Ông cho rằng do sự sắp đặt [kế hoạch kháng chiến] của viên phụ chính, [nên] thời điểm hiện nay là chưa thích hợp.
Ngay từ lúc trở về đây (Hạ Long), tôi đã báo cho ông ta biết các nhận xét của tôi, các nhận xét mà tôi đã hân hạnh trình bày với ngài, và cách thế mà tôi cho là cần thiết để hoàn thành kế hoạch [đánh chiếm kinh thành Huế]. Với tư cách đại diện toàn quyền, ông ta cần có một quyết định hoặc ông ta yêu cầu chính phủ có một quyết định về vấn đề này.
Tôi đang chờ đợi sự trả lời của ông ta và tôi đã sẵn sàng thực hiện ngay kế hoạch chiếm đóng” (71).
Kí tên: Courbet.


Tên tướng Courbet không nêu tên những tên quan ta sớm bộc lộ thái độ cơ hội xu thời. Những người “sát tả” cũng không thấy nhắc tên. Nhưng văn thư phúc trình của y, ít ra là ở văn thư này, rất đúng với sự thật.
Về những người “sát tả”, không thể không kể đến Tôn Thất Trường, quyền tổng đốc Thanh Hoá, cùng những người khác, “vì tội đốt nhà giết người của dân giáo, bị xử án có sai bậc” (72) .
“Năm ngoái, [Tôn Thất] Trường nghe hơi những dân giáo ở thượng du tụ họp, bèn phi hội với Sơn phòng sứ là Hồ Tư Cung, phó sứ Đỗ Huy Toản, phái người đi thám, có đúng, tức thì đến trong rừng rậm, làm bí mật cho mất tăm tích” (72), “giáo mục là Trần Lục hằng tới đến dinh sứ Pháp kêu xin tư xét…” (72) .
Courbet sao lại không nói đến sự thật này tại những vùng rừng Nghệ An, Thanh Hoá:
“Vốn có kinh nghiệm trong việc chinh phục vùng dân cư nghèo đói, lạc hậu, thực dân Pháp cũng tung các giáo sĩ sang Lào, tiến hành thâm nhập vào quần chúng. Tháng 01.1873, chúng phái hàng chục giáo sĩ sang Đông bắc Lào. Năm 1880, giám mục Puginier lại phái thêm ba mươi (30) giáo sĩ nữa. Cho đến năm 1883, bọn thực dân Pháp vác cây thánh giá đã tổ chức được đến năm ngàn (5.000) giáo dân ở miền Đông Lào. Những giáo sĩ nhiều khi đi theo đoàn quân làm sĩ quan tôn giáo, làm tên lính xung kích về tinh thần để chinh phục những vùng dân cư lạc hậu” (73) .
Thực dân cố đạo đã bao vây nước ta từ phía Lào một cách thâm độc như thế! Triều đình thật sự rất khó đặt căn cứ kháng chiến trên đất Lào, mà chỉ trên dãy Trường Sơn thuộc nước ta với hệ thống sơn phòng, thượng đạo ra đến Việt Bắc…
Hẳn sự thật trên bọn tướng Pháp không thể không ghi lại trong các báo cáo của chúng?
Về những tên quan ta đã thật sự xu thời, cầu thân với giặc như Phạm Hy Lượng? Giặc Pháp đưa y lên đến chức quyền tuần phủ (74). Triều đình không đồng ý, cử Nguyễn Văn Thi đến Ninh Bình vào tháng hai nguyệt lịch. Pháp lại không đồng thuận. Ngay lập tức, triều đình cương quyết không đặt tuần phủ ở đấy, để vô hiệu hoá Phạm Hy Lượng (74)! Phạm Hy Lượng chỉ còn cách ăn lương Tây! Và tất nhiên, y bị dân tỏ thái độ bất hợp tác, bởi y đâu phải là quan triều đình nữa, chữ kí y nào có giá trị gì! Courbet không viết rõ những chi tiết ấy!

9

Gần đây, công việc ở thượng du lại thuộc về khâm sai đại thần của triều đình. Tên tướng thực dân Millot đã đưa binh thuyền về đóng ở Hà Nội, Hải Dương (75).
Đến thời điểm này, từ hai chỗ đóng quân trên, Millot quyết đánh tỉnh Bắc Ninh (75). Y chia quân ra làm vài đạo. Đạo đường thuỷ, Pháp tiến quân qua các sông Nghĩa Trụ, Lục Đầu, Thiên Đức, Nguyệt Đức. Đạo đường bộ, chúng tiến theo hướng đến các phủ huyện Siêu Loại, Quế Dương, Gia Lâm, Thuận Thành. Tàu thuyền lớn nhỏ hơn bốn mươi (40) chiếc. Ngựa của kị binh Pháp cũng không dưới hai trăm (200) con. Số lính viễn chinh lên đến sáu, bảy nghìn (6.000 – 7.000) tên. Ngoài ra, thực dân Pháp còn cưỡng bức điều động hoặc thuê thuyền buôn để chở thuốc đạn. “Lính bản xứ” phản quốc chúng chiêu mộ được cũng bị điều động đến Bắc Ninh (75).
Phía quân Thanh, từ nay quân Thanh chiến đấu với ngọn cờ của chính nước Đại Thanh. “Tổng đốc tỉnh ấy là Trương Quang Đản tuân theo chuẩn định trước, trung lập, hiện đem quân [tình] nguyện đi theo quân thứ cũ, đi ra đóng ở địa phận xã Nghi Vệ, huyện Tiên Du” (75) .
Quân Thanh gồm sáu mươi (60) doanh (mỗi doanh khoảng ba trăm [300] viên lính), chia ra khắp bốn mặt thành tỉnh Bắc Ninh để nghiêm cẩn phòng thủ. Thống lãnh Triệu Ốc ở ngoài thành. Hoàng Quế Lan ở bên trong. Cửa thành các phía đều khoá bằng ổ khoá để quyết tử, chứ không phải chỉ đóng then (75).
Ngày mùng mười tháng hai nguyệt lịch, Giáp thân (08.03.1883), quân Pháp tấn công dinh đồn quân Thanh. Bảy đồn do Trần Đắc Quý chỉ huy, vốn đóng rải rác ở Mẫn Tuyên (?),Phù Lương, Thuận Lương đều bị Pháp đánh chiếm (75).
Ba hôm sau, ngày mười ba (11.03.1884), đề đốc tam tuyên Lưu Vĩnh Phúc cấp tốc đưa quân từ Hưng Hoá về tham chiến. Nhưng chưa kịp đóng quân ổn định (75)…
Sáng mười lăm (13.03.1884), trận chiến dữ dội giữa Pháp và Thanh tại Quế Dương chưa phân thắng bại. Trưa hôm ấy, Pháp cho quân đến gần dinh quân Thanh, thả khinh khí cầu quan sát trận địa. Chúng lập tức thu quân về. Bất ngờ, vào buổi chiều, chúng lại tấn công, bao vây. Quân Thanh không chống nổi. Nhiều viên lính bị thương, chết tại trận. Lệnh rút quân của các tướng Thanh ban ra. Tất cả số quân Thanh ở trong thành, ngoài thành đều vỡ tan, phải lùi về Thái Nguyên, Lạng Sơn. Quân của đề đốc họ Lưu cũng rút về Hưng Hoá! Quân Thanh và quân thuộc tướng họ Lưu chưa kịp bàn định kế hoạch phối hợp, lại chẳng đánh yểm trợ cho nhau, nên cả hai đều bại trận (75)!
Các quan ta ở trong thành đều tản ra ngoài. Trương Quang Đản tức tốc đem quân về tỉnh, định vào giữ thành trống, nhưng bị quân Thanh cản lại. Tổng đốc họ Trương và khâm sai Đoàn Văn Hội ở hai nơi cùng viết hai bản tập tâu đệ gửi về kinh (75)!
Một điều đáng buồn là Dương Danh Lập yết kiến quan tướng Pháp một cách xu thời, được chúng trao quyền tổng đốc (75). Nhưng triều đình không chuẩn cho Dương Danh lập, lại chỉ định Nguyễn Tu làm quyền biện. Trương Quang Đản có chỉ triệu về kinh đô Huế (75)!
Sau đó, Pháp lại đưa quân lên Thái Nguyên, tiến đánh (76). Năm doanh quân của quản đốc nhà Thanh Trần Đức Triều cầm cự, không bao lâu cũng rút. Thủ uý Nguyễn Quang Khoan bị chúng bắn chết. Ngày hai mươi hai tháng hai Giáp thân (20.03.1884), quân Pháp vào thành Thái Nguyên đốt phá và vơ vét. Pháp lại quay về tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, Thái Nguyên vô chủ, chỉ do quan đoàn luyện tán dũng cai quản. Đến tháng năm, quân Pháp chiếm lại Thái Nguyên. Thái Nguyên lại bị giày xéo bởi thực dân cho đến khi quan tỉnh ta lại đảm nhiệm chức vụ ở đấy nhưng bị công sứ Pháp kìm kẹp (76)!
Thế là Bắc Ninh, Thái Nguyên đều thất thủ!
Dẫu sao, hai phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vẫn kiên định việc thúc đẩy thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” , Tân Sở và hệ thống sơn phòng, thượng đạo xuyên Trường Sơn ra Việt Bắc vẫn được tiếp tục xây dựng để làm hậu lộ cho kinh đô Huế khi cần thiết, Pháp và Trung Hoa nhà Thanh sẽ vẫn cứ lao vào cuộc chiến tranh…

10

Trong thời gian thiết kế, chỉ đạo việc xây dựng Tân Sở và thượng đạo, quan phụ chính Nguyễn Văn Tường hết sức cảm động khi về lại vùng đất Thành Hoá cũ. Ở đấy, ông đã gặp lại những người đồng bào thiểu số Bru Vân Kiều, Tà Ôi… ở những buôn làng thân thương ngày đó. Ông ngậm ngùi khi biết một vài người đã mất đi… Thế mà đã hơn ba mươi năm trôi qua, kể từ ngày ông bắt đầu được bổ nhiệm tri huyện ở vùng đất trọng yếu, “sinh điểm” cũng là“tử điểm” của “bộ não kinh đô” ấy!
Đến đầu tháng ba nguyệt lịch, Kiến Phúc nguyên niên, Giáp thân (1884), quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường lại cảm động biết mấy khi hay tin các tư mục thổ châu ở Mường Vang, Ná Bồn (Na Bôn), Thượng Kế, Xương Thịnh, Làng Thìn, rồi kế đến là châu Tá Bang đã đến dinh tuần phủ và hành cung tại Quảng Trị xin làm lễ tiến hương và lễ khánh hạ với những phẩm nghi vùng sơn cước (77). Ông và triều đình cũng đã xin nhà vua trẻ chuẩn y các phẩm vật trang tặng họ (77).
Hơn lúc nào hết, mối dây liên hệ thắm thiết giữa các châu huyện Thành Hoá (Cam Lộ) và triều đình được thắt chặt.
Cũng trong kế hoạch củng cố, chấn chỉnh lại đồn bảo phòng thủ, đồn Dũng Quyết ở Nghệ An được thiết lập để đặt những cỗ súng thần công, quá sơn (78). Đồng thời với việc định lại lệ thi hương văn khoa, cũng định lại lệ thi hương võ khoa, thi hội võ khoa để kén chọn những cử nhân, tiến sĩ về võ nghệ, binh pháp, kĩ thuật quân sự (79). Đó cũng là một cách để nâng cao năng lực cho quân binh vũ trang.
Triều đình lại định lệ về thi hội, thi đình văn khoa (80). Trong tháng tới, dẫu dập dồn biến cố, cũng phải tổ chức thi chọn nhân tài cho Đất nước. Thêm vào đó, lại cho khắc in những cuốn sách Nguyễn Thuật mang từ Trung Hoa về (81).
Mặt khác, tại triều đình, để tổ chức cho vị vua trẻ học tập, bồi dưỡng kiến thức kinh sử và văn chương cũng như chính trị, kinh diên đã được khai giảng tại Điện Vũ hiển. Đây là một việc hết sức quan trọng.
“… Lễ tiết theo y như năm Tự Đức. Dùng đại học sĩ Điện Cần chính là Nguyễn Văn Tường, thượng thư là Phạm Thận Duật sung làm giảng quan ở kinh diên. Tham tri Bùi Ân Niên, Nguyễn Thuật, Nội các sung biện là Nguyễn Thượng Phiên, tham biện là Lê Duy Thụy sung làm quan giảng [dạy] hàng ngày. Nguyễn Hữu Chính, Phan Trọng Mưu [cùng làng với Phan Đình Phùng], Trần Phát [người Quảng Trị] (đều đỗ tiến sĩ), Nguyễn Trăn (cử nhân) đều sung chức khởi cư chú” (82) .
Tuy thế, một sự cố đau lòng lại xảy ra! Kì ngoại hầu Hồng Chuyên, con trai thứ sáu của Chấn Định quận công Miên Niết, anh ruột Hồng Thành, là một thành viên đắc lực trong việc chiêu tập, tuyển mộ hương binh, góp phần xây dựng đội quân Phấn Nghĩa. Nhưng do sục sôi căm uất cố thượng thư Trần Tiễn Thành, một người đã bị Hồng Hàn, Hồng Tế, Hồng Chức giết chết hồi tháng mười năm ngoái, nên đến lúc này, sau năm tháng trời, Hồng Chuyên lại vẫn dẫn quân đi cướp tài sản ở nhà cố thượng thư ấy (83)! Việc bị phát giác, Bộ Hình giam xét, và về sau được gia ân hoãn quyết (83). Đó là một nỗi đau, nhưng triều Nguyễn có lệ “pháp luật bất vị thân” !
Và thêm một nỗi đau nữa! Lưu Vĩnh Phúc tuy là một dũng tướng nghĩa hiệp, nhưng cũng có thói hung tàn, một thuộc tính của phỉ! Mới đây, dân ba xã Tiên Canh, Ngọc Canh, Hoà Canh thuộc huyện Tam Dương, tỉnh Sơn Tây, bị quân của Lưu Vĩnh Phúc đốt, giết hơn nghìn nhà (84)! Thật quá mức hung tàn. Triều đình đã tâu xin ban dụ chẩn cấp cho dân bị hại và lại dụ Hoàng Tá Viêm nhắc nhở Lưu Vĩnh Phúc phải kiềm thúc quân lính để khỏi ân hận (84).
Trong khi đó, điều khiến quan phụ chính Nguyễn Văn Tường không thể yên lòng là bọn giặc thổ Hán gian và giặc nước Thanh lại thông đồng quấy phá nước ta (85)…
Tháng ba Giáp thân (1884) lại bùng ra chiến sự tại Hưng Hoá!
Tên thiếu tướng Pháp Brière de L’Isle dẫn đến bảy nghìn (7.000) quân cùng nhiều thuyền tàu lớn nhỏ chở súng đạn tiến lên Hưng Hoá (86). Chúng tập hợp quân ở một thành luỹ bên một trái núi. Bấy giờ, tổng đốc Vân – Quý nhà Thanh Sầm Dục Anh đã cho quân binh dưới quyền hai thống lãnh Đinh Hoè, Mã Trụ về giữ nội địa nước Thanh. Thống đốc Hoàng Tá Viêm cũng cho lính dỡ đồn Phương Giao, về đóng tại Thục Luyện. Thự tuần phủ Nguyễn Quang Bích nhờ quân Lưu Vĩnh Phúc yểm trợ, vẫn đóng tại thành (86).
Ngày mười bốn tháng ba (09.04.1884), Brière de L’Isle thúc quân tấn công. Lưu Vĩnh Phúc giao chiến. Thắng bại chưa ngã ngũ về bên nào. Đến giờ ngọ (11 – 13 giờ) ngày hôm sau (10.04.1884), trọng pháo của Pháp bắn liên tục. Sức công phá của những trái đạn trọng pháo rất dữ dội khiến quân Lưu Vĩnh Phúc không địch nổi. Ngày mười sáu (11.04.1884), quân của tên tướng De Négrier lại tiến lên tiếp viện. Lưu Vĩnh Phúc cho rút quân theo đường phủ Lâm Thao. Quan quân Hoàng Tá Viêm rút theo lối tắt, lại chuyển quân theo đường thượng lộ Thu Cúc, các tỉnh thần cũng tản đi các nơi (86).
Ngày mười bảy (13.04.1884), quân Pháp chiếm được thành! Hưng Hoá thất thủ (86)!
Tên thiếu tá Coronat liền đem quân đi đánh đồn Vàng (86)!
Hoàng Tá Viêm đưa quân thứ về tới Quảng Bình, tâu về kinh xin nộp trả ấn và cờ tiết chế (86). Ông đau xót xin được miễn về Huế, chỉ ở tại quê nhà Quảng Bình! Ngô Tất Ninh, Lương Tư Thứ phải đem quân về đến kinh thành (86)!
Vận nước đã đến thế, hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và bình Tây trấn bắc đại tướng quân Hoàng Tá Viêm đành tạm thời ẩn nhẫn để bảo tồn lực lượng. Việc Pháp đặt người thổ cai trị, đại thần Viện – Bạc tâu lên vua Kiến Phúc: “Sự thế hiện nay cũng phải quyền nghi như thế. Nhưng phải xét người thực có văn học, không liên can án kiện gì mới được. Quan Pháp nếu thiên lệch, cũng nên giữ lễ tranh biện, không được khinh suất nghe lời” (87)! Và Nguyễn Hữu Độ cùng Đoàn Văn Hội cũng được lệnh chuẩn thi hành như vậy.
Các quan tỉnh và quân thứ tại Hưng Hoá (Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Đình Nhuận), Lạng Sơn (Lã Xuân Uy) và tại Sơn Tây (Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Thiện Thuật) đều đi biệt sang nước Thanh (86). Có người vẫn quyết vận động, tập hợp quân binh kháng chiến đến cùng nhưng việc không thành (86)!
Như thế, từ khi Henry Rivière dẫn quân và tàu binh ra Hà Nội đến nay, từ tháng hai Nhâm ngọ (1882) đến nay, khoảng một năm hơn, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Thuận An, Ninh Bình, Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hưng Hoá đều lần lượt thất thủ trước đại binh hung tàn của giặc Pháp!
Thời tiết bắt đầu vào mùa viêm nhiệt, vua Kiến Phúc lại ốm (88)!
Những người đánh Pháp, tiễu phỉ, chết trận, hi sinh vì Tổ quốc được thông kê, lập danh sách để cấp tiền tuất và cho con em hoặc cháu được hưởng lệ nhiêu ấm (89).
Kì thi hội năm nay vẫn được tiến hành trong nỗi đau có lẽ chưa bao giờ đau đến thế! Đại binh ta phải rút khỏi Bắc Kì! Bình Tây trấn bắc đại tướng quân Hoàng Tá Viêm đã về ẩn nhẫn tại làng quê cũ! Một cuộc rút quân theo chiến thuật.
Tuy nhiên, thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” vẫn được hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thúc đẩy tiếp diễn!

11

Trong khi tên tướng Brière de L’Isle đang thăm dò thượng nguồn sông Lô, chuẩn bị tiến đánh Tuyên Quang (90), chính phủ thực dân Pháp tại Paris thấy cần phải thuyết phục nhà Thanh Trung Hoa bàn định một tạm ước với nội dung nhà Thanh chấp nhận để Pháp “bảo hộ” Trung, Bắc Kì của nước ta (91).
Tên trung tá Pháp Fournier nhờ một người Đức tên là Détring đang làm quan cho nhà Thanh, giữ việc thương chính ở Quảng Đông, liên lạc với Lý Hồng Chương để tính việc nghị hoà (91).
“Khâm sứ Pháp đóng ở kinh là Lê Na [:Rheinart] cho rằng thuỷ bộ thượng thư [Millot] của nước ấy [:Pháp] đánh điện báo cho hai nước Thanh – Pháp biết: Hiện nay ở Thiên Tân nước Thanh, đã giảng hoà rồi, [tuy] ước thư còn chưa trao đổi” (92) .
Quả vậy, ngay từ ngày mười tám tháng tư Giáp thân (12.05.1884), Lý Hồng Chương và Fournier đã kí xong tạm ước về việc tranh chấp tại Đại Nam giữa hai nước Pháp và Trung Hoa (92)!
Không đợi đến tháng năm Giáp thân, Rheinart thông báo, kì thực, hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã biết được sự thể đó từ khi cuộc hoà nghị Pháp – Thanh mới bắt đầu…
Trong nước, từ thượng tuần tháng năm Giáp thân (1884), tên tướng Brière de L’Isle đã ra lệnh cho tên trung tá Duchesne tiến quân đánh chiếm Tuyên Quang (90)!
Sau khi thất thủ Hưng Hoá, lãnh binh Hoàng Thủ Trung (một võ quan thuộc quân Lưu Vĩnh Phúc) đã đem hai nghìn (2.000) quân về thành của tỉnh Tuyên Quang (90). Y làm dữ, bắt tuần phủ Hoàng Tướng Hiệp đưa đi an trí ở phủ An Bình (rồi lại ép sang Long Châu). Y còn cướp hết kho tàng, sổ sách, chở đi. Thông phán Nguyễn Trung Hội bị bắn chết. Các quan tỉnh đều cáo bệnh hoặc lẻn về Hà Nội (90).
Mặc dù có hành vi như phỉ đối với một tên quan như Hoàng Tướng Hiệp, nhưng Hoàng Thủ Trung rất kiên quyết chống Pháp, có công trong trận phục kích, chém được đầu Henry Rivière. Phải chăng Hoàng Thủ Trung hành động với ý định xưng hùng xưng bá một góc trời, như ước nguyện ban đầu, khoảng ba mươi năm trước, của quân Cờ Đen? Có một điều chắc chắn là Hoàng Tướng Hiệp đã ngã về phía chủ “hoà”, nên về sau, ngụy triều Đồng Khánh đã truy tặng hàm thượng thư Bộ Lễ cho tên xu thời Hoàng Tướng Hiệp này (90)!
Lúc này, dần dần, Hoàng Thủ Trung đã thu tập đến sáu, bảy nghìn hoặc gần một vạn (6.000 – 10.000) quân, cố thủ tỉnh Tuyên Quang. Hoàng Thủ Trung chiến đấu với quân Pháp đến hơn sáu tháng trời, mỗi tháng đều có một, hai lần giao chiến, có tháng đến bốn, năm lần chạm súng (90)! Quân Pháp cố giữ để chờ tăng viện quân.
Không những ở Tuyên Quang, quân Cờ Đen còn chiếm đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lao Kay (93). Đó cũng là một trong những lí do để Pháp cố giải quyết vấn đề bằng hoà nghị với nhà Thanh… Nhưng mặc dù tạm ước Fournier – Lý Hồng Chương đã kí kết tại Thiên Tân, quân Tàu và quân Cờ Đen vẫn chưa rút hết quân!
Dẫu sao, trong thời điểm đó, triều đình Đại Nam hơi bối rối khi thấy thế trận “toạ sơn quan song hổ đấu” đã gần như ngã ngũ ở thế thắng của Pháp. Bấy giờ, Pháp lại quyết buộc triều đình chấp nhận “hoà” ước mười chín khoản. Theo như cam kết sửa đổi của Tricou, “hoà” ước Quý mùi (1883) gồm hai mươi bảy khoản trước đây phải sửa đổi lại thành “hoà” ước Giáp thân (1884) này!
Hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã nghĩ hết mọi sách lược, mưu kế, cùng triều đình, quân tướng làm hết mọi cách, để nhằm biến đổi tình hình theo hướng sáng sủa hơn cho nước ta, nhưng xem ra thành quả thu lại vẫn chỉ phần nào khả quan hơn so với hàng ước Quý mùi (1883)!
Ngày mùng bốn tháng tư, công sứ Pháp tại Bắc Kinh Ba Đức Na (Ba Tờ Nô, Patenôtre) đã xuống tàu tại Pháp, lên đường đến Sài Gòn (94). Rheinart cũng đi cùng y. Thượng tuần tháng năm Giáp thân (1884), Patenôtre với chức trách toàn quyền đại thần Pháp đã đến kinh đô Huế để bàn định “hoà” ước mới. Y và Rheinart ở tại Sứ quán cùng tên khâm sứ đương chức Parreau.
Triều đình đã cử thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật sung làm khâm sai toàn quyền đại thần, tham tri Bộ Công được giữ quyền sung thượng thư là Tôn Thất Phan, làm phó toàn quyền định ước. Ngoài ra, tham tri Chu Đình Kế, thị lang Tôn Thất Lương Thành được cử làm hộ tiếp, giao thiệp (94).
Lẽ ra, quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường chỉ ở tại triều, chỉ đạo cho cuộc bàn định và kí kết “hoà” ước này, nhưng Pháp vẫn muốn có chữ kí, ấn triện của ông để chúng yên tâm. Với yêu sách và áp lực ấy, phụ chính Nguyễn Văn Tường đành giữ vai trò dự thương (94).

Hết tệp 1
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 11)

Khởi viết từ 07 giờ 30 sáng ngày 06.01.2003
(04.12 Nh. ngọ HB.3)
Viết đến dòng chữ này vào lúc 09 giờ kém 10 phút
ngày 16.01.2003 (14.12 Nh. ngọ HB.3)
tại thành phố Hồ Chí Minh.


TRẦN XUÂN AN


(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, tập 36, bản dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., Hà Nội, 1976, tr. 18.

(2) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 45.

(3) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 18 – 19.

(4) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 20.

(5) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 19 – 20.

(6) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 20 – 23.

(7) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 28 – 30.

(8) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 20 – 28.

(9) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 20.

(10) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 35 – 37.

(11) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 38 – 38.

(12) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 32.

(13) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 32 – 33.

(14) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 33.

(15) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 33 – 35.

(16) GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 367 – 368.

(17) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 59 – 62, 80 – 91, 161 – 162.

(18) Dẫn theo: CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, sđd., tr. 387 – 388.

(19) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 393.

(20) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 394.

(21) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 395.

(22) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 403 – 404.

(23) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 39 – 40.

(24) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 40 – 42.

(25) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 43 – 44.

(26) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 45.

(27) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 47 – 48.

(28) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.), Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 536 – 537.

(29) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 48 – 50.

(30) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 54.

(31) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 57.

(32) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 57.

(33) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 57.

(34) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 191.

(35) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 58.

(36) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 58 – 59.

(37) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 62 – 63.

(38) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 64.

(39) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 63 – 64.

(40) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 64.

(41) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 64.

(42) Xin xem lại chú thích (37), truyện kí thứ năm, tập I, bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này.

(43) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 64 – 66.

(44) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 66.

(45) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 66 – 67.

(46) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 69. Nguyễn Xuân Phiếu cũng có tài về kĩ thuật rèn đúc súng đạn như Cao Thắng (thuộc căn cứ kháng chiến Hà Tĩnh) trong những năm Cần vương sau đó.

(47) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 69.

(48) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 243; tập 36, sđd., 1976, tr. 69.

(49) Xin xem lại chú thích (5), truyện kí thứ mười, tập III, bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này.

(50) Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (NĐNĐDVP. & TH.), UB.KHXH. TU. Tp.HCM. xb., 1993, chương hai, mục 1 (Các giáo sĩ thừa sai), tr. 55 – 83, và riêng về Pellerin, tr. 66 – 68.

(51) Xem Kinh Thánh, Hội thánh Tin Lành Việt Nam, 1986, phần sách Tân ước, Ma-thi-ơ: 6: 9 – 13, tr. 7. Bản dịch của Tin Lành giáo: “Nước Cha được đến”, không khác với bản dịch xưa nay của Thiên Chúa giáo: “Nước Cha trị đến”. Phải chăng đó là cách dịch xuyên tạc của bọn cố đạo thực dân? Lâu nay, người ta nghĩ các cố đạo Hà Lan, Tây Ban Nha, Pháp, mục sư Mỹ cố ý dịch như vậy để tạo nghĩa: giáo dân cầu xin, trông ngóng “Nước thực dân [Hà Lan, Tây Ban Nha, Pháp, Mỹ] đến nước Đại Nam ta”. Thật ra, với tinh thần nghiên cứu khoa học, tiếp cận theo góc độ sử học (nghiên cứu lịch sử Do Thái), ai cũng có thể thấy rõ đây là một bài kinh cổ xưa (thời Chúa Jésus Christ đang sống) của một bộ phận dân tộc Do Thái cổ đại, và câu ấy có ngụ ý nghĩa cầu mong “Nước do Thiên Chúa siêu linh cai quản sẽ xuất hiện”. Người Do Thái thể hiện khát vọng một cách kín đáo rằng nước Do Thái nô lệ dưới ách thống trị của đế quốc La Mã sẽ là Nước Thiên Đàng (độc lập, tự do, hạnh phúc, theo Ki-tô giáo) trên mặt đất, thuộc địa cầu trần gian này; nước Do Thái như thế sẽ xuất hiện như lời kinh cầu nguyện. Xin lưu ý thêm: Trên danh nghĩa, Jésus Christ là hậu duệ đời thứ hai mươi bảy (27) [!] của vua Đa-vít, một vị vua anh minh của dân tộc Do Thái. Jésus Christ là một người chủ “hòa”, thỏa hiệp với đế quốc La Mã, nhưng có khát vọng phục hồi nước Do Thái của Đa-vít. Đó là mối liên hệ về cảm thức lịch sử giữa tiểu sử Jésus Christ với những người “phù Lê” nửa sau thế kỉ XIX ở nước ta, nhưng với một nhận thức bị nhồi sọ rất lệch lạc (“Nước Cha trị đến”), để cuối cùng đi đến tình trạng phản quốc, làm tay sai cho giặc Pháp, Tây Ban Nha, đế quốc Mỹ. Xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, hai bản in vi tính, 2001 & 2003 (chưa có điều kiện xuất bản rộng rãi).

(52) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 70 – 71.

(53) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 71.

(54) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 72 – 73.

(55) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 73.

(56) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 74 – 75.

(57) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 75.

(58) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 76 – 77.

(59) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 77.

(60) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 78.

(61) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 537 – 538; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 448 – 449.

(62) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 538.

(63) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 80 – 81.

(64) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 219.

(65) Xem thêm: Nhiều tác giả (GS. Nguyễn Huệ Chi chủ biên), Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ, Viện Văn học, Nxb. KHXH., 1992.

(66) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 81 – 82.

(67) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 82 – 83.

(68) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 85; xem thêm: ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 62 – 63: mục thứ năm tập sớ tâu mật của Trương Quốc Dụng, “Sửa lại thói quen của nhân sĩ”. Trong đó, ông phê phán thói học và làm văn chương bạc nhược, yếu đuối, nhất là trong thời đoạn Pháp và “tả đạo” (không phải Thiên Chúa giáo chân chính) lăm le xâm lược nước ta.

(69) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 18.

(70) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 88 – 89.

(71) Tư liệu (có phim đèn chiếu chụp lại văn bản viết tay của Courbet…) do bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh và con gái là cô Trần Nguyễn Từ Vân, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Tường, sưu tầm, dịch thuật, công bố tại Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế phối hợp tổ chức, 02.07.2002.; nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc biên tập, phân tích, bổ sung, soạn lại, đăng trên bán nguyệt san Xưa & Nay, số 126, tháng 10.2002, tr. 18 – 20.

(72) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 89 – 90.

(73) Võ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới (LSCĐTG.), quyển III, Nxb. ĐH. & THCN., 1985, tr. 238.

(74) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 44, 72, 90.

(75) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 90 – 93.

(76) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 93.

(77) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 94 – 95.

(78) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 98.

(79) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 95 – 98.

(80) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 101 – 103.

(81) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 101.

(82) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 98 – 99.

(83) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 101.

(84) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 100.

(85) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 99.

(86) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 103 – 105; VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 538 – 539; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 458 – 459.

(87) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 108 – 109.

(88) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 108.

(89) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 105 – 108.

(90) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 112.

(91) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 539 – 540.

(92) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 127.

(93) VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 539.

(94) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 113 – 120.

Cước chú của bài Dụ đạo – bình (truyện kí thứ mười một):

(*) Đây là câu đề của mỗi tiểu mục trong Đại Nam thực lục. Phần tiếp theo là phần thuyết của tiểu mục đó. Câu đề này tôi mạn phép viết hoa toàn bộ như nhan đề một bài viết.


TXA.

Tư liệu bổ sung cho truyện kí thứ mười một:

“… Kể từ ngày 13.12.1883, một mật lệnh được truyền đi từ các sĩ phu, lãnh tụ đến cho các làng Phật giáo Bắc An Nam với nội dung khích lệ làm vũ khí chống lại “bọn Pháp nội công”. Cuộc tàn sát công giáo [thật ra, chỉ riêng bộ phận đích thực là “tả đạo”, theo giặc] sẽ thực hiện từ ngày 02 đến 08 tháng giêng 1884…” (NNBCĐH [BAVH., 1916], bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, tập III, sđd., 1997, tr. 57).

Chú thích xong vào lúc 10 giờ kém 15 phút,
ngày 19.02.2003 (19.01 Quý mùi HB.3).


TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 1
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 11)

Xin xem tiếp tệp 2
(Phân đoạn 2 truyện kí thứ 11)
thuộc bộ sách “PCĐT. NVT.”.

0 Comments:

Post a Comment

Subscribe to Post Comments [Atom]



<< Home